
Không biết tự bao giờ, cái tên cốm làng Vòng đã trở thành nỗi nhớ xanh non của đất Kinh kỳ. Người Hà Nội đi xa, mỗi độ thu về, lại bâng khuâng ngậm ngùi khi nghĩ tới hương cốm phảng phất trên những con phố xưa, như một lời nhắc nhở dịu dàng về tuổi thơ đã qua và quê nhà còn đó.
Làng Vòng – một làng cổ nằm ven đô, nay đã hòa trong lòng phố xá nhộn nhịp, nhưng vẫn giữ cho mình nét thanh đạm, ít nhiều trầm mặc, y như hương cốm – khiêm nhường mà đằm sâu. Mỗi sớm thu, trong sương bạc, tiếng chày giã cốm thập thình vọng ra từ sân nhà ai, nghe ấm lòng như khúc nhạc ru. Người làng Vòng làm cốm không chỉ bằng đôi tay khéo léo mà còn bằng cả sự kiên nhẫn, tỉ mỉ, tựa như họ đang nâng niu, gìn giữ linh hồn của lúa nếp non.
Cốm sinh ra từ những bông lúa vừa kịp uốn câu hương sữa. Người ta hái lúa lúc tinh mơ, hạt nếp còn căng tròn, sóng sánh nhựa ngọt. Qua bao công đoạn công phu – rang, giã, sảy, sàng – cốm mới thành hình, mỏng tang, mềm mịn, xanh như ngọc. Đôi bàn tay mộc mạc của người làm cốm bỗng hóa phép, biến hạt lúa bình dị thành thứ quà thanh tao, tinh khiết đến nao lòng.

Hà Nội thu nào cũng hanh hao, nắng vàng như rót mật. Trong tiết trời se sắt ấy, người ta chờ mong cái hương cốm nồng nàn, lẫn trong gió heo may. Cốm làng Vòng không ồn ào khoe sắc, không đậm đà như phở, không ngọt gắt như bánh kẹo. Cốm lặng lẽ hiện diện trên lá sen xanh, mỏng manh và nhẫn nại. Chỉ cần nhẹ nhàng nhón một nhúm nhỏ, đưa lên môi, sẽ thấy cả mùa thu tan chảy nơi đầu lưỡi – vị ngọt dịu của nếp sữa, mùi hương thanh khiết của lá sen, và cái dẻo mịn như tơ của hạt cốm.
Người Hà Nội xưa vốn cầu kỳ trong cách thưởng thức cốm. Cốm phải được gói trong hai lớp lá sen – lá ngoài già đượm hương, lá trong non xanh giữ độ ẩm. Thêm sợi rơm vàng buộc nhẹ, vừa để kín gió vừa như dấu triện riêng của mùa. Mở gói cốm ra, hương thơm dìu dịu thoát lên, len vào kẽ tóc, vương trên tay áo. Thứ mùi hương giản dị mà ám ảnh ấy, đến già rồi vẫn cứ nhớ.
Mẹ tôi kể, ngày xưa, mỗi mùa cốm, bà nội thường để dành một gói nhỏ cúng tổ tiên, rồi chia phần cho con cháu. Đám trẻ khi ấy mong nhất cái gói cốm bé xíu, được cẩn thận bóc ra, vo từng viên xinh xinh, ăn chầm chậm mà ngỡ mình đang nuốt cả trời thu. Cốm làng Vòng không chỉ là món quà, mà còn là ký ức. Nó gói ghém cả một phần đời người Hà Nội – thời còn áo nâu, guốc mộc, tiếng rao quà rong trên con phố hẹp.

Cốm cũng đi vào thơ ca, thành biểu tượng của nét tinh tế, thanh nhã đất Thăng Long. Nhà thơ Thạch Lam từng viết: “Cốm không phải là thức quà của người vội vã… Cốm là thức quà của người thanh nhã, của những cặp tình nhân, của tình quê hương sâu kín.” Quả thật, cốm là sự chậm rãi, là dịu dàng, là khoảnh khắc lắng đọng giữa nhịp sống xô bồ.
Mỗi lần cầm gói cốm trên tay, tôi lại thấy lòng mình mềm đi. Nhớ bóng dáng những người đàn bà gánh hàng rong, tà áo sẫm màu, nón thúng che nắng, giọng rao trầm khàn mà ấm áp: “Ai cốm làng Vòng đây!” Nghe mà thương quá đỗi. Thương cái nghề giữ gìn hạt ngọc mùa thu, thương người làng Vòng kiên nhẫn giữa phố phường đổi thay.
Bây giờ, Hà Nội đã khác xưa nhiều. Nhà cao tầng chen nhau mọc lên, đường sá thênh thang, tấp nập. Nhưng vẫn có những người lặng lẽ gìn giữ hương cốm cũ. Mùa thu về, hương cốm làng Vòng lại lẩn quất đâu đó, khiến trái tim người đi xa chợt rưng rưng. Như một lời hẹn – dẫu phố phường đổi khác, vẫn còn đó một thứ mùi thơm xanh, chở che nỗi nhớ quê nhà.
Đào Quốc Thịnh