banner 728x90

Chả Nhái làng Trào

09/04/2024 Lượt xem: 4729

          Làng Phong Triều, xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Tp. Hà Nội xưa có tên nôm là làng Trào (được gọi chệch từ chữ Triều) nổi triếng trong vùng với món ăn “chả nhái”.

          Từ Trung tâm Hà Nội, theo đường Quốc lộ 1A cũ, đến xã Nam Triều, rẽ tay trái vào đường bê tông asphalt liên xã trên 2km, qua làng Nam Quất là tới Phong Triều. Nơi đây có ngôi đình cổ đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) xếp hạng Di tích Kiến trúc nghệ thuật năm 1987 – Gắn dấu ấn của Thiếu bảo Đỗ Khắc Trung (vì có công trạng giúp dân, giúp nước trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII, được ban quốc tính Trần Khắc Trung) và được dân làng Phong Triều lập đền, đình sở thờ phụng suy tôn làm Thành hoàng làng đến ngày nay.

          Trong bữa cơm dân dã đồng quê, được thưởng thức món ăn “chả nhái” thơm lựng béo ngậy mới cảm nhận được hương vị thơm ngon của nó. Theo các cụ cao niên ở làng kể lại cho chúng tôi biết:

          “Chả nhái” làng Trào nổi tiếng từ rất lâu đời. Xưa vùng đất này nghèo khổ lắm “đồng chũng chiêm khê mùa thối”, các cụ chúng tôi chỉ có mỗi nghề làm nông nghiệp, lũ trẻ thường chăn trâu, tổ chức bắt cá, rồi bắt ếch, bắt nhái nướng ăn… Dần dà trải qua nhiều đời thành nghề bắt nhái và chế biến món ăn “chả nhái” này càng hợp khẩu vị hơn.

          Cách bắt cũng rất đơn giản: Thường vào tháng 3 âm lịch, người ta bắt bằng dậm (dậm làm bằng tre đan có thể bắt được cả cua, cá…) và một thanh tre dài để khua cho nhái nhảy vào. Người ta thường bắt vào ban đêm, nhất là sau mỗi cơn mưa, nhái nhảy ra kiếm ăn, trên các mô đất hoặc trong các rãnh luống ruộng màu mỡ (thợ bắt nhái đi bắt có thể dùng đèn, buộc giỏ tre bên cạnh sườn bỏ nhái vào).

          Nhái được bắt về để trong giỏ hoặc được chuyển sang nới cất giữ bảo quản. Sáng ra, người ta sóc ít tro bếp vào nhái để nhái đỡ nhảy, sau đó đem rửa sạch nhúng vào tro bếp lột da. Bỏ hết nội tạng… chỉ lấy phần thịt để băm chả. Phần nội tạng có thể dùng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, cũng có thể làm thức ăn cho đàn vịt để có nguồn “trứng vịt lộn” nổi tiếng vùng đất Phú Xuyên Hà Nội.

          Thịt nhái có thể chế biến nhiều món:

          * Món rang: Người ta phi hành mỡ thơm rối đảo nhái vào, vừa đủ độ cho nghệ, ớt để dậy mùi rồi cho vào kho với tương là được.

          * Nhái băm viên: Tức là băm thịt nhái với nghệ, hành, ớt.. băm nhỏ nhuyễn mới vo viên đem rán vàng, viên có thể dùng nấu với măng, nấu với mớp hương… là món ăn nhiều người ưa thích.

          * Món chả nhái: Người ta có thể chọn thịt ngon đem lên thớt băm (để giảm công đoạn giã – nay cho vào máy xay nhỏ). Khi tương đối nhỏ thì cho vào cối giã (giã như giã giò). Dùng 2 chày giã thúc xong cho ít muối đến khi cảm thấy nó dính chày là được. Người ta tiếp tục trộn đều với nghệ, vỏ quýt khô ngâm đem giã nhỏ (cho thêm ít nước mắm, bột ngọt) để tạo hình dạng đẹp, dùng khuôn tre dầy 5 ly (làm tròn, vuông, hoa thị.. tùy ý) đặt khuôn lên lá chuối sạch đã bôi mỡ, lấy thìa múc sản phẩm phết kín vào khuôn, một lúc bỏ ra cho khô, rồi tiến hành rán vàng là được. Ngày nay, người ta có thể băm thêm rau răm, mỡ lợn khổ hoặc thịt ba chỉ (thái con chì) điểm đem thúc giã đều lẫn với thịt nhái làm tăng hương vị của chả. Nhiều nơi còn thêm đậu xanh, đậu phộng…

          “Chả nhái” là món ăn vừa giòn, vừa đậm, vừa bùi, vừa cay, vừa ngậy, vừa ngon… Ăn “chả nhái” không ngấy, có nhiều đạm, giàu vitamin là món ăn bồi bổ cho cơ thể được nhiều người ưa thích – ăn rồi làm người ta khó quên. Cùng chính vì vậy mà món ăn “chả nhái’ làng Trào nổi tiếng trong vùng và về đến quê làng Trào hẳn ai cũng còn nhớ câu ca “Cụ Tạo 2 dao – Ông Đào 2 thớt” – Ý muốn nói tới sự nhanh tay khéo léo của người thợ chế biến món băm “chả nhái” làng Trào./.

                            Thạc sĩ Phùng Quang Trung

 

Tags:

Bài viết khác

Cúng Tết Đoan Ngọ và những điều cần lưu ý

Phong tục cúng Tết Đoan Ngọ đã tồn tại từ xa xưa ở Việt Nam, nhưng cúng sao cho đúng, cho đủ lại là điều không phải ai cũng biết.

Lễ tế trâu trên đền tháp Po Klong Garai

Cứ đến chu kỳ 7 năm, tộc họ Cuah lại tổ chức Nghi lễ tế trâu dâng lên thần linh trên đền tháp Po Klong Garai. Đây là dịp để các thành viên trong dòng tộc gặp mặt, cùng nhau tưởng nhớ ông bà, tổ tiên và cũng là cách để bảo tồn các nghi lễ truyền thống của người Chăm, nhất là hát xướng ca của chức sắc ông Kadhar cùng các điệu múa dâng lễ đặc sắc, thu hút người xem.

Đền tháp Po Klong Garai: Biểu tượng vững bền của văn hóa Chăm

Đền tháp Po Klong Garai là một trong những công trình kiến trúc và điêu khắc tiêu biểu và nổi bật của người Chăm được bảo tồn khá nguyên vẹn. Tháp tọa lạc trên đồi Lá trầu (Mbuen Hala), thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Văn khắc bằng chữ Chăm cổ trên đá sa thạch cung cấp những thông tin về văn hóa, lịch sử quý giá như công lao và thần tích của vua Po Klong Garai, các hoạt động tế lễ, cúng bái và tổ chức xã hội của người Chăm

Độc đáo Lễ cưới “ Dứ bà đù” của người Hà Nhì đen (Lào Cai)

Trên mảnh đất biên cương Y Tý, Lào Cai, người Hà Nhì đen vẫn gìn giữ nhiều phong tục truyền thống độc đáo, trong đó lễ cưới “Dứ bà đù” được xem là một nét văn hóa tiêu biểu, phản ánh rõ bản sắc dân tộc và đời sống tinh thần của họ.

Vang danh nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Bình Dương được thiên nhiên ưu đãi có nguồn khoáng sản đất sét và cao lanh rất phù hợp cho nghề làm gốm. Trong những làng gốm ở Bình Dương thì làng gốm Lái Thiêu đã nổi danh trong và ngoài nước bởi sự mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế và đậm chất Nam bộ.

Rắn trong tâm thức người Quảng Ngãi

Trong những câu chuyện dân gian của người Quảng Ngãi, hình tượng rắn hiện lên muôn hình, muôn vẻ. Rắn có lúc được người xưa thần thánh hóa và tôn thờ, đi vào đời sống tâm linh; có lúc lại trở thành biểu tượng của cái ác, gieo rắc nỗi sợ hãi cho con người.

Nét đặc trưng của trang phục dân tộc Thái ở Việt Nam

Trang phục không chỉ là y phục hàng ngày mà còn là phần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, thể hiện văn hóa và tâm linh của người Thái. Mỗi chi tiết trên trang phục đều mang ý nghĩa riêng và thể hiện sự kính trọng văn hóa truyền thống.

Đám giỗ Miền Tây – Nét đẹp văn hóa của người dân Miền Tây

Đám giỗ miền tây… tràn đầy tình cảm, đó chính là câu nói mà ai cũng sẽ nhắc khi nói về đám giỗ miền quê. Người miền Tây quan niệm rằng đám giỗ không chỉ là dịp để tưởng nhớ người đã khuất mà còn là dịp để bà con, hàng xóm láng giềng quây quần, cùng nhau sẻ chia những câu chuyện trong cuộc sống và thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm.
Top