banner 728x90

Văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Chăm

10/12/2024 Lượt xem: 2874

Cộng đồng người Chăm ở tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận có 2 giáo phái chính là người Chăm theo đạo Bàlamôn và người Chăm theo đạo Hồi giáo Bàni. Ngoài ra có một bộ phận nhỏ theo đạo Hồi giáo Islam, bộ phận này được tách ra từ đạo Hồi Bàni, du nhập vào tỉnh Ninh Thuận từ những năm 60 của thế kỷ XX. Trong đời sống văn hóa nói chung, văn hóa ẩm thực nói riêng, đồng bào Chăm của 2 giáo phái trên có những đặc tính ẩm thực và phép tắc ứng xử mang đặc trưng riêng.

Các món ăn được đồng bào Chăm dâng cúng các vị thần trong ngày lễ

Đặc tính ẩm thực của người Chăm

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Inrasara, tổ tiên người Chăm xưa cư trú dọc bờ biển duyên hải miền Trung – vùng đất nhiều nắng gió nên yếu tố địa lý và khí hậu đã ảnh hưởng không nhỏ đến đặc tính ẩm thực của người Chăm. Đơn cử như trong chế biến món ăn, người Chăm ít khi dùng mỡ động vật mà chủ yếu dùng dầu ăn thực vật để tăng hàm lượng chất béo. Những con vật dùng để hiến tế (dâng cúng thần thánh) đều là những con vật có rất ít mỡ trong cơ thể như gà, dê, trâu…

Cư trú ở vùng đất khí hậu khắc nghiệt nên trong chế biến món ăn, người Chăm không ưa các món chiên xào mà chủ yếu là nướng và luộc. Đặc biệt người Chăm rất chú trọng vào các món canh để cân bằng thân nhiệt khi thời tiết nắng nóng. Một bữa ăn thường ngày trong gia đình người Chăm ít khi thiếu món canh, có thể là canh rau rừng, canh rau môn… Đặc biệt là món canh rau tập tàng (nhiều thứ rau nấu chung) pha bột gạo là món ăn khoái khẩu của rất nhiều người, kể cả những gia đình khá giả.

Trong chế biến món ăn, người Chăm rất chú trọng các loại gia vị làm cho món ăn thêm đậm đà, hợp khẩu vị như ớt, hành, sả, mắm, muối… Ở Ninh Thuận có một làng Chăm ăn cay nổi tiếng, đó là làng Chăm Bàni Lương Tri (Palei Cang), xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn. Cách đây hơn 30 năm, hầu như nhà nào cũng có vườn trồng ớt và dự trữ ớt khô để làm gia vị chính trong chế biến các món ăn từ thủy sản nước ngọt như cá, lươn, ếch…

Bên cạnh sử dụng nhiều gia vị, trong các món ăn của người Chăm không thể thiếu món mưthin (mắm - món chấm đặc trưng). Mắm của người Chăm có nhiều loại như: Ia mưthin (nước mắm), Mưthin ngưic (mắm nêm), Mưthin jrum (mắm tôm), Mưthin drei (mắm cái), Mưthin tung ikan ya (mắm lòng cá ngừ), Mưthin ritaung (mắm cá lòng tong), Mưthin ka-ơk (mắm chưng)…

Mắm chưng của người Chăm

Người Chăm đang chế biến món cá ướp muối. Ảnh Kiều Maly

Những phép tắc trong ăn uống

Truyền thống xa xưa trong các gia đình người Chăm đều trải chiếu hoặc cà tăng theo chiều Đông-Tây để dọn ăn. Buổi sáng và buổi chiều thường dọn ăn ngoài sân, còn buổi trưa ăn trong hiên nhà. Thức ăn được dọn trên mâm và ngồi theo thứ bậc trong gia đình. Người phụ nữ (mẹ, chị) thường ngồi gần nồi niêu vừa ăn vừa bổ sung thức ăn cho mọi người. Bữa ăn bắt đầu khi người lớn tuổi cầm đũa. Trong lúc ăn không được nói chuyện hoặc cãi cọ, không để rơi vãi thức ăn.

Trong đình đám, tùy theo tính chất và đạo giáo Bàlamôn hay Bàni mà người Chăm có cách dọn ăn khác nhau. Nếu là đám tang ở cả hai đạo giáo dọn ăn theo chiều Bắc - Nam, còn nếu là các đám khác như đám cưới, hoặc lễ cúng thần thánh, họ dọn ăn theo chiều Đông - Tây. Người Chăm Bàlamôn bày thức ăn trên mâm cho hai hoặc bốn người. Còn người Chăm Bàni chỉ bày thức ăn trên mâm cho hai vị cao niên hoặc chức sắc ngồi trên cùng (gọi là mâm trên). Những mâm dưới sẽ bày thức ăn trực tiếp trên mặt chiếu.

Các vị chức sắc ở hai đạo giáo tham gia cúng kính trong nhà lễ (Kajang), khi ngồi vào mâm thụ lễ đều phải ngồi duỗi chéo chân và cắn hạt muối, thực hiện nghi thức xin phép bằng động tác và lời niệm thầm trong miệng. Đàn ông Chăm dùng cơm nơi đình đám hay ở nhà đều ngồi theo tư thế xếp bằng. Còn người đàn bà ngồi theo tư thế duỗi chéo chân như các vị chức sắc, đó là tư thế chuẩn mực bắt buộc. Trong bất kỳ tiệc đình đám nào, đàn ông cũng được mời ăn, uống trước rồi mới đến phụ nữ.

Những vị tu sĩ có những kiêng cữ gắt gao như không được ăn cá trê, thịt thú vật đã bị chết... Tu sĩ Bàlamôn không được ăn thịt bò, tu sĩ Bàni kiêng ăn thịt heo, thịt dông và nhiều kiêng kỵ khác.

Món rau và mắm chấm của người Chăm. (Ảnh Kiều Maly)

Có thể thấy, văn hóa ẩm thực và những phép tắc ứng xử trong ăn uống của người Chăm đã tạo nên một “phong cách ẩm thực Chăm” rất đặc trưng, góp phần làm nên một nền văn hóa ẩm thực phong phú, độc đáo của 54 dân tộc Việt Nam.

Nguồn: baodantoc.vn

 

 

Tags:

Bài viết khác

Vang danh nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Bình Dương được thiên nhiên ưu đãi có nguồn khoáng sản đất sét và cao lanh rất phù hợp cho nghề làm gốm. Trong những làng gốm ở Bình Dương thì làng gốm Lái Thiêu đã nổi danh trong và ngoài nước bởi sự mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế và đậm chất Nam bộ.

Rắn trong tâm thức người Quảng Ngãi

Trong những câu chuyện dân gian của người Quảng Ngãi, hình tượng rắn hiện lên muôn hình, muôn vẻ. Rắn có lúc được người xưa thần thánh hóa và tôn thờ, đi vào đời sống tâm linh; có lúc lại trở thành biểu tượng của cái ác, gieo rắc nỗi sợ hãi cho con người.

Nét đặc trưng của trang phục dân tộc Thái ở Việt Nam

Trang phục không chỉ là y phục hàng ngày mà còn là phần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, thể hiện văn hóa và tâm linh của người Thái. Mỗi chi tiết trên trang phục đều mang ý nghĩa riêng và thể hiện sự kính trọng văn hóa truyền thống.

Đám giỗ Miền Tây – Nét đẹp văn hóa của người dân Miền Tây

Đám giỗ miền tây… tràn đầy tình cảm, đó chính là câu nói mà ai cũng sẽ nhắc khi nói về đám giỗ miền quê. Người miền Tây quan niệm rằng đám giỗ không chỉ là dịp để tưởng nhớ người đã khuất mà còn là dịp để bà con, hàng xóm láng giềng quây quần, cùng nhau sẻ chia những câu chuyện trong cuộc sống và thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm.

Đền thờ ông bà Đỗ Công Tường – Cao Lãnh – Đồng Tháp

Đền thờ và mộ ông bà Đỗ Công Tường rất cổ kính, trang nghiêm tọa lạc trên đường Lê Lợi, phường 2, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đền thờ chủ chợ Cao Lãnh nổi tiếng linh thiêng khắp vùng. Đặc biệt là với giới kinh doanh làm ăn buôn bán nên đã trở thành địa điểm du lịch tâm linh thu hút đông đảo người dân khắp nơi về đây tham quan chiêm bái.

Tục cưới hỏi của dân tộc Tày

Đám cưới thường được tổ chức vào lúc chiều tối (tầm 4 -5 giờ trở đi). Cưới vào giờ này không ảnh hưởng đến công việc trong ngày của mọi người, người ở xa mấy núi cũng đến kịp. Hơn nữa, mọi người sẽ có thời gian ở chơi lâu hơn. Tiệc cưới được chia làm hai tiệc. Tiệc thứ nhất dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng. Tiệc thứ hai dành cho nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể.

Cần giữ gìn nét đẹp Lễ cúng sức khỏe của người Ê Đê

Đồng bào dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk có nền văn hóa truyền thống đa dạng, phong phú với những lễ hội, phong tục, tập quán độc đáo. Trong đó, Lễ cúng sức khỏe là một nghi thức quan trọng, thể hiện sự tôn kính và hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Lễ cúng sức khỏe không chỉ là dịp để người Ê Đê bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên mà còn là cơ hội để các thành viên trong gia đình, cộng đồng tụ họp, thăm hỏi, chia sẻ niềm vui và cầu chúc cho nhau sức khỏe, hạnh phúc.

Lễ cúng bản của đồng bào Khơ Mú

Lễ cúng bản là một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng của dân tộc Khơ Mú ở xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Lễ cúng bản thường được tổ chức vào đầu năm hoặc sau mỗi mùa vụ để cầu mong bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và bản làng yên ổn. Đây không chỉ là một nghi lễ tâm linh mà còn là dịp để cộng đồng gắn kết, thể hiện lòng biết ơn với thần linh và tổ tiên.
Top