banner 728x90

An Nam tứ đại khí

03/07/2024 Lượt xem: 3508

An Nam tứ đại khí (còn gọi là Nam Thiên tứ bảo khí hay Nam Thiên tứ đại thần khí) là những báu vật linh thiêng có thể chấn hưng quốc gia, quyết định đến sự phồn vinh, suy vong của dân tộc của Việt Nam. Như Nhật Bản có “Tam Chủng thần khí”, Trung Quốc có “Trấn Quốc chi bảo”, Triều Tiên có “Thiên Phù tam ấn”, “tứ đại khí” của người Việt gồm: Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, Tháp Báo Thiên, Chuông Quy Điền và Vạc Phổ Minh - 4 công trình nghệ thuật dưới thời Lý, Trần. Cả 4 đều được đúc bằng đồng.

Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm

Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm (Ðông Triều, Quảng Ninh) đứng đầu trong “Tứ đại khí”, là pho tượng đồng do sư Nguyễn Minh Không cho đúc vào thời Lý. Tượng cao 6 trượng (khoảng 20m), trọng lượng cụ thể đến nay không có tài liệu nào ghi rõ; bên trong lưu giữ 18 viên xá lợi của các vị bồ tát Đại Việt, lại thêm 360 viên đá linh khí từ các đền thờ chư thánh và anh hùng của Đại Việt.

Pho tượng bị giặc Minh xâm lược cướp đi, ngôi chùa bị phá hủy. Đến đầu thời Lê, chùa Quỳnh Lâm được dựng lại, nhưng đến đời Thiệu Trị (1841-1847) lại bị đốt trụi.

Đỉnh tháp Báo Thiên

Tháp Báo Thiên, tên đầy đủ là Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp được xây năm 1057 ở Chùa Báo Thiên. Chùa Báo Thiên, tên đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên từng là một ngôi chùa tráng lệ bậc nhất trong lịch sử Việt Nam, được xây dựng vào năm 1056, dưới triều đại của Hoàng đế Lý Thánh Tông. Chùa tọa lạc tại thôn Tiên Thị, huyện Thọ Xương (xưa gọi là phường Báo Thiên), gần hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm). Khu vực này ngày nay là phố Nhà Chung, Hà Nội.

Tháp Báo Thiên cao 20 trượng, có tất cả 12 tầng. Thân tháp xây bằng gạch hoa khắc chữ “Lý gia đệ tam đế, Long thụy Thái Bình tứ niên tạo”, tức là "Đúc năm thứ tư niên hiệu Long thụy Thái Bình đời vua thứ ba triều nhà Lý". Đỉnh tháp đúc bằng đồng khắc ba chữ “Đao Ly Thiên” tỏ ý tưởng của đấng tối cao xông lên tận trời thẳm, trên có tượng người tiên bưng mâm ngọc hứng móc ngọt làm thuốc cho vua.

Năm 1258, một trận bão đã làm ngọn tháp bị đổ. Sau khi được trùng tu, tháp lại bị sét đánh sạt mất hai tầng về góc bên đông vào năm 1322. Đến năm 1406 (84 năm sau khi được trùng tu lần thứ hai) đỉnh tháp lại bị đổ. Thời thuộc Minh (1414-1427), quân Minh đã cho phá tháp để chế súng. Chỗ tháp bị phá sau đó được đổ đất thành gò cao để dựng đàn tràng.

Chuông Quy Điền

Chuông Quy Điền được đặt tại chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) ở Hà Nội – ngôi chùa được xây theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ vào năm1049.

Đến năm 1080, vua Lý Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân đồng để đúc một quả chuông lớn dự định đặt trong khuôn viên của chùa cùng với một tòa tháp chuông cao 8 trượng (khoảng 24m). Chuông được đúc xong nhưng vì kích thước quá lớn, chuông đánh không kêu nên đành bỏ xuống một thửa ruộng, ruộng này có nhiều rùa, do đó có tên là chuông Quy Điền.

Năm 1426, khi bị quân Lê Lợi vây thành Đông Quan, tướng Minh là Vương Thông đã phá chuông Quy Điền lấy đồng đúc vũ khí.

Vạc Phổ Minh

Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 02/1262 đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc. Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi nhường ngôi về ở; dựng cung Trùng Hoa cho vua mới khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó, phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc.

Theo mô tả, vạc nặng ba vạn cân, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó, bên ngoài có hình rồng uốn lượn và hình chim âu đang bay, trên thành có 100 lỗ hình quả trứng tượng trưng cho con Rồng cháu Tiên. Trong mỗi lỗ lại đặt một tượng rồng vàng để tích tụ linh khí của dòng dõi Bách Việt. Bệ vạc khắc tên tất cả các vị vua của dân tộc, từ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, cho đến vua Lý Thánh Tông.

Cùng với chuông Quy Điền, năm 1426, khi bị quân Lê Lợi vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí./.

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

 

Tags:

Bài viết khác

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ý nghĩa biểu tượng của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt - Di sản vô giá của dân tộc

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật thiết đến sự phát triển của Tịnh độ tông và Mật tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”. Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng.

Áo Nhật Bình: Một di sản văn hóa quý của Cố đô Huế

Áo Nhật bình vốn là loại triều phục dành cho bậc hậu, phi, cung tần và công chúa thời Nguyễn, nay đã trở thành loại trang phục phổ biến của phụ nữ Huế trong dịp hôn lễ và ngày càng được các bạn nữ trẻ Việt Nam yêu thích sử dụng khi đi ngoạn cảnh, check in…

Di tích Lịch sử - Văn hóa là gì? Tiêu chí, phân loại di tích lịch sử văn hóa

Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.
Top