banner 728x90

Truyện ngắn: Còn mãi với thời gian

29/04/2025 Lượt xem: 2352

Hồi nhỏ, ở quê, tôi thấy nhà ông Trãi nghèo nhất xóm. Ngày hai buổi đi làm, với tính tình hiền lành, chăm chỉ, ông lại có tay nghề “đa năng” nên ai nhờ gì làm nấy, cả ngày vất vả có khi cũng chỉ được trả công bằng 5 lon gạo hoặc ít ký khoai lang, củ mì. Vợ anh, chị Hải mắt kèm nhèm, lại thêm bị bệnh khớp gối nên chỉ quanh quẩn trong nhà, ngoài bếp.

Trong xóm, ai cũng nói nhà ấy sống phúc hậu, ăn ở biết xóm giềng, nuôi dạy con cái ngoan ngoãn nhưng nghèo khổ quá, thỉnh thoảng đem rá đi vay gạo, tuy thương nhưng nhiều khi bà con chẳng có gì giúp nhiều, bởi thời ấy ai cũng nghèo cả. Có Tết, vào lúc giao thừa, cả làng nổ ran tiếng pháo, nhìn lên đồi, ngôi nhà tranh khuất trong vườn mít của anh im lìm không đèn đóm, nghĩa là năm đó cả nhà không có Tết.

Cùng tuổi với tôi, con Bê nhà ấy có nước da bánh mật, hai má có hai hạt gạo duyên dáng, tóc lúc nào cũng cột túm sau gáy như nhánh cỏ. Mỗi lần ra chợ bán bánh, đi trên đường, thỉnh thoảng nó cũng lắc lắc cái đầu cho bím tóc tung tẩy. Ở chợ Xổm, Bê bán một thứ bánh “độc quyền” không ai làm đó là bánh gạo lá mít. Bánh này làm bằng bột gạo đỏ, ngày nay người ta thường gọi là gạo lức. Loại gạo đỏ này được trồng trong mấy thửa ruộng gần con kênh nước lợ, năng suất rất thấp nhưng chịu được sâu bệnh, gạo thì rất khó nấu thành cơm, hễ cơm để nguội là khô cứng. Thế nhưng cái bánh gạo đỏ của nhà nó làm ra nhiều người lại hay mua, phần thì thương nó tảo tần giúp cha mẹ nuôi em, phần có vị ngon riêng khó tả. Có lần hỏi, Bê cười nói làm bánh này dễ thôi, lấy gạo đỏ xay nhuyễn với nước đun sôi để nguội, ủ kín một ngày một đêm; lấy đậu đỏ hầm chín, đem ra cối đá quết thật nhuyễn, sau đó phi với hành mỡ để làm nhân. Canh bốn, Bê dậy sớm đem bột ra nặn, cho nhân vào trong và vo tròn thành từng cái như kiểu làm bánh ít, to cỡ miệng ly uống trà, sau nó đặt từng cái lên từng chiếc lá mít rồi xếp vào nồi hông như hấp cách thủy.

Nhìn cái bánh tròn trịa, màu đỏ gạo lức, khô cứng nằm trên lá mít xanh ăn không mềm, không dẻo, nhưng lạ thay bánh này để càng nguội ăn càng ngon. Ăn chậm, nhai kỹ từng miếng nhỏ mới cảm nhận hết được vị bùi bùi, beo béo, thơm thơm của bột gạo lức, đậu đỏ, hành tăm, mỡ heo, thoảng một chút vị chát nhẹ của lá mít tươi, thật riêng biệt.

Hồi đó, Tết nào bà tôi cũng đặt hàng con Bê làm mấy chục cặp bánh gạo đỏ chưng lên bàn thờ cúng ông nội tôi. Bà nói, xưa ông rất thích ăn món này.

Xa quê, sống nơi đất khách, mỗi khi gặp nhau ai cũng vồn vã chào hỏi và không quên hỏi thăm thứ bánh gạo đỏ lá mít ở chợ có còn bán không, nhà con Bê hết khổ chưa. Thì ra ẩn náu sâu xa trong cái ngon của bánh nằm ở sự bình dị chân chất như tâm hồn quê kiểng, coi trọng sự hiền lành, hiếu nghĩa của con người chứ không phải miếng ăn.

Hương Lan

 

 

 

 

 

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Truyện ngắn: Anh thương binh

Tôi rời quân ngũ trở về quê với đôi nạng gỗ nhưng lòng vẫn rộn lên niềm vui vì đất nước, quê hương không còn nỗi ám ảnh của chiến tranh. Vợ tôi đến với tôi trong sự tình cờ. Đó là ngày đoàn thanh niên xã tình nguyện giúp những gia đình thương binh liệt sĩ. Thấy tôi đang đứng trên đôi nạng gỗ cuốc đất, cô ấy thấy thương nên bắt chuyện. Rồi chúng tôi nên vợ, nên chồng bắt đầu từ ngày ấy.

Tản văn: Khói lam chiều, hương vị đồng quê

Khói có ở quanh ta, rất nhiều đến mức nhìn quanh đâu cũng bắt gặp. Vậy mà cơn cớ chi người ta cứ nhớ, cứ thèm một chút làn khói loang trời quê đến xao xác nỗi niềm.

Truyện ngắn: Cha luôn mong cho anh hạnh phúc

Tiệc cưới đông vui. Thực khách nói cười rôm rả. Có người đàn ông suốt buổi tiệc cứ lặng lẽ ngắm nhìn theo dáng cô dâu chú rể. Mắt ông ngời sáng mỗi lần chú rể khoác tay cô dâu đến gần…”Mời bác, mời chú, mời anh…”. Chú rể mời hết những người trong bàn tiệc, chỉ trừ ông. Cô dâu tinh tế nhận ra điều khác lạ.

Tản văn: Ngày ấy đâu rồi

Làng tôi ở ven sông, lọt thỏm giữa ngút ngàn ruộng lúa. Bầu trời như rộng ra cho thỏa những cánh cò bay lả bay la, cho thỏa tiếng đồng lúa reo rì rào. Những dòng kênh xanh đến mơ màng chạy ngang rẽ dọc nơi nơi, đưa nước về hầu như khắp miền quê cũng không thể xua hết cái nóng oi bức nên người ta thường dùng bóng râm của cây cối và gió từ sông thổi lên để làm những công việc lặt vặt, trong đó có cánh võng ru nôi của mẹ tôi.

Truyện ngắn: Nơi cửa Phật

Ngày rằm. Trong chùa, người đông, chen lấn, khói hương nghi ngút. Tôi quỳ gối, thành kính khấn: “Cầu mong cho gia đình con hạnh phúc, thịnh vượng...”. Khấn xong, tôi ngẩng đầu lên thì thấy một phụ nữ to béo chen lấn đứng ngay trước mặt tôi. Thật vô duyên - Tôi thầm nghĩ.

Truyện ngắn: Những mảnh ghép của mẹ

Mẹ thích nhóm lửa đun nước hay nồi cá kho nhừ trên bếp than cả giờ đồng hồ, ăn cả tuần, mặc cho các con chẳng ủng hộ vì sức nóng hừng hực của lò than và làm bẩn cả một góc sân. Mẹ thích ăn cơm sáng với cá kho, muối mè, bắp luộc hay xôi..., toàn những thứ đạm bạc. Mẹ thích cất giữ những đồ vật, quần áo cũ mèm, có thứ đến vài chục năm và cất chật ních trong những chiếc tủ gỗ cũng xù sì bạc phếch vì màu thời gian.

Truyện ngắn: Lễ ra mắt

Mới sáng sớm, mấy cô gái ở cơ quan anh bắt đầu bàn tán chuyện làm lễ “ra mắt” nhân viên mới khi nhận tháng lương đầu tiên. Có người bảo đến nhà hàng hải sản, người khác lại bảo đến quán thịt rừng; ăn nhậu xong thì đi hát karaoke. Tuy không phải tiền của mình nhưng các cô đã lên lịch chọn món, chọn quán, chọn địa điểm ca hát.

Tản văn: Mùa đông in dấu tuổi thơ

Những cơn mưa mịt mù của mùa đông làm những gốc rạ vừa gặt xong nhanh chóng đâm chồi. Trong mưa, chồi lúa vẫn vươn lên xanh mướt. Còn anh em tôi có cơ hội đeo lủng lẳng cái giỏ bên hông, lội ruộng mà bắt ốc, bắt cua.
Top