banner 728x90

Phở trong văn chương Việt

28/03/2025 Lượt xem: 2550

Trong các món ăn truyền thống được người Việt yêu thích, phở là món thật đặc biệt. Từ giới bình dân cho tới giới thượng lưu, bất cứ ai cũng có thể bước chân vào hàng phở. Người ta có thể ăn phở bất cứ thời điểm nào trong ngày: phở sáng, phở trưa, phở chiều, phở tối, phở đêm, chỉ cần đói bụng là có thể ăn.

Phở gánh - một món ăn nổi tiếng của người Hà Nội xưa

Thời bao cấp khó khăn, phở được coi là thứ quà sang trọng bậc nhất, chỉ khi nào nhà có người ốm mới được mua phở về. Đến nay, đa số mọi người đều cho rằng, phở xuất phát từ Nam Định vào những năm đầu của thế kỷ 20, rồi từ đó lan rộng ra tất cả các tỉnh thành và đến ngày nay, phở đã có mặt tại nhiều quốc gia trên thế giới như một đặc sản mang thương hiệu Việt Nam.

Áng tùy bút đầu tiên viết về phở có lẽ thuộc về Thạch Lam trong tập sách “Hà Nội 36 phố phường”, do NXB Đời Nay in lần đầu năm 1943. Trong bài “Quà Hà Nội – Hàng quà rong”, nhà văn dành một đoạn riêng để nói về phở. Đối với Thạch Lam, một bát phở ngon là khi “nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả”.

Ông còn phát hiện ra một nơi có phở rất ngon mà ít người biết đến, đó là gánh phở trong nhà thương mà bà bán hàng cùng hai cô con gái đều là những người ngoan đạo: “Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ”.

Cho đến năm 1957, Nguyễn Tuân viết bài tùy bút “Phở” với nhiều phát hiện độc đáo. Nào là sự phân biệt giữa “xẩu” và “xương” trong nồi phở. Nhiều người cứ nghĩ “xẩu” cũng giống như “xương”, là một tiếng đệm mà thôi, nhưng thực ra “xẩu” có nghĩa là những đầu xương trong nồi phở có dính thịt và những cái xương chưa róc hết thịt. Như vậy, uống rượu với bát xẩu hẳn sẽ thú vị hơn nhiều so với bát xương, bởi xẩu đồng nghĩa với việc còn nhiều thứ để… gặm. Nguyễn Tuân còn phát hiện ra các đơn vị từ thú vị khác của “chuyên ngành” phở như: quả thăn, mũ phở, tên của các hàng phở thường chỉ có một tiếng và là những cái tên dân dã như: Phở Phúc, Phở Tư, Phở Gù, Phở Sứt… Bài tùy bút “Phở” được viết trong chuyến đi công tác tận Phần Lan, nhà văn được mời đủ các món ngon vật lạ trên nước bạn mà vẫn không nguôi nhớ món phở quê mình mà ông gọi là một “món quà cổ điển rất tính chất dân tộc của ta”. Và bát phở ngon nhất đối với Nguyễn Tuân luôn luôn là một “bát phở cổ truyền Hà Nội ăn ngay bên lò than quả bàng đỏ lửa giữa ngàn năm văn vật”.

Một hàng phở trên phố

Sau Nguyễn Tuân, cũng có một người xa đất Bắc nhớ về phở, đó là Vũ Bằng. Trong cuốn tùy bút “Miếng ngon Hà Nội” in năm 1960, phở là món ăn được nhớ tới đầu tiên qua bài viết “Phở bò – món quà căn bản”. Theo Vũ Bằng, một người Việt Nam bình thường có thể không ăn bánh bao bánh bè, không ăn mì không ăn xôi, nhưng chắc chắn là ai cũng từng ăn phở. Ông nhớ về từng hàng phở của Hà Nội xưa như: phở Sứt, phở Nhà thương Phủ Doãn, phở Đông Mỹ ở phố Mới, phở Cống Vọng kéo xe, phở Mũ Đỏ đằng sau miếu chợ Hôm, phở Tàu Bay ở ngã ba phố Hàm Long… Mỗi hàng phở lại có một đặc điểm riêng, nhưng tóm lại có ba hình thức bán phở cơ bản là phở xe, phở gánh và phở hiệu. Vũ Bằng dành nhiều thời gian hơn cả để tả về Phở Tráng ở phố Hàng Than, được mệnh danh là “vua phở 1952”. Ông gọi bát phở ấy là một “bài thơ phở”: “Cứ nhìn bát phở không thôi cũng thú. Một nhúm bánh phở, một ít hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau xanh thơm biêng biếc; mấy nhát gừng màu vàng thái mướt như tơ; mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa lựu… Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở có như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm… Rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng ngọt cứ lừ đi, ngọt một cách hiền lành êm dịu, ngọt một cách thành thực thiên nhiên, không có chất gì là hóa học…”. Muốn biết chân giá trị của một hàng phở, phải ăn bát phở chín không thôi, nếu ngon mới thật là ngon… Và điều hệ trọng của tất cả các hàng phở, chính là nằm ở bí quyết trong nồi nước dùng…

Sau Vũ Bằng hơn ba thập niên, vẫn còn một người Hà Nội nữa viết về phở Hà Nội, đó là Băng Sơn. Ông viết nhiều về các món ăn của người Hà Nội và không quên dành cho phở những trang ân tình. Tùy bút phở của Băng Sơn có thể xem như một biên niên sử về phở Hà Nội qua bao tháng năm, qua bao thăng trầm, từ các hàng phở gánh bán rong mà người mua phải đứng mà ăn cho tới các hiệu phở tên tuổi lừng lẫy một thời. Ông khen Thạch Lam viết được câu văn “thoáng chút hương thơm cà cuống như một nghi ngờ” nhưng ông cũng đồng thời phản đối vì cà cuống không hợp với phở. Ông không quên nhắc tới một thời khó khăn với những bát phở không người lái. Còn với phở có người lái, ngoài phở bò truyền thống, phở gà xuất hiện như một biến cố mang tính lịch sử bởi có một thời gian nước ta cấm giết mổ trâu bò. Bên cạnh phở bò và phở gà, có người còn làm cả phở thịt ngựa, phở mọc nhưng những thứ phở ấy quả là… không thể ăn được. Cho đến thời của Băng Sơn viết về phở, thì phở đã phát triển rộng khắp , tưng bừng trên mọi phố phường. Nhưng thưởng thức phở cho đúng điệu cho đủ tinh tế thì không phải ai cũng thấu mọi nhẽ vậy.

Nhắc lại bốn áng tùy bút về phở của bốn văn nhân nổi danh trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nếu không kể tới bài thơ về phở của nhà thơ Tú Mỡ mang tên “Phở Đức Tụng”, được viết từ năm 1934. Văn xuôi viết về phở có thể còn nhiều nhưng thơ về phở mà lưu lại được trong lòng người, xem chừng chỉ có một:

 “Trong các món ăn “quân tử vị”/ Phở là quà đáng quý trên đời/ Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mươi/ Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ/ Này bánh cuốn này thịt bò, này nước dùng sao nhánh mỡ/ Ngọn rau thơm, hành củ thái trên/ Nước mắm, hồ tiêu cùng dấm ớt điểm thêm/ Khói nghi ngút đưa lên thơm ngát mũi/ Như xúc động tới ruột gan bàn phổi/ Như giục khơi cái đói của con tì/ Dẫu sơn hào, hải vị khôn bì/ Xới một bát nhiều khi chưa thích miệng/ Kẻ phú quý cho chí người bần tiện/ Hỏi ai là đã nếm không ưa/ Thầy thông thày phán đi sớm về trưa/ Điểm tâm phở, ngon ơ và chắc dạ/ Cánh thuyền thợ làm ăn vất vả/ Phở xơi no cũng đỡ nhọc nhằn/ Khách làng thơ đêm thức viết văn/ Được bát phở cũng đỡ băn khoăn óc bí/ Bọn đào kép con nhà ca kĩ/ Lấy phở làm đầu vị giải lao/ Chúng chị em sớm mận tối đào/ Nhờ có phở cũng đỡ hao nhan sắc/ Phở là đại bổ, tốt bằng mười thang thuốc bắc/ Quế phụ sâm nhung chưa chắc đã hơn gì/ Phở bổ âm dương, phế thận can tì/ Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch/ Anh em lao động đồng tiền không rúc rích/ Coi phở là môn thuốc ích vô song/ Các bậc vương tôn thường chả phượng nem công/ Chưa chén phở vẫn còn chưa đủ món/ Chớ chê phở là đồ ăn hèn mọn/ Dẫu sao thành Ba Lê còn phải đón phở sang/ Cùng các cao lương vạn quốc phô trương/ Ngon lại rẻ, thường hay quán giải/ Sống trên đời, phở không ăn cũng dại/ Lúc buông tay ắt phải cúng kem/ Ai ơi, nếm thử kẻo thèm”.

Bài thơ dài 39 câu mà khiến cho ta phải đọc một mạch với nhịp điệu lôi cuốn, vừa hài hước dí dỏm pha chút trào lộng mà vẫn đầy tình yêu mến tự hào về một món ăn mang đậm bản sắc người Việt.

Cho đến nay, món phở đã vượt khỏi biên giới Việt Nam để đến với nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày 4/4 được chọn làm ngày vinh danh phở Việt Nam tại Nhật Bản. Từ năm 2017 ở Việt Nam, ngày 12/12 được chọn làm Ngày của Phở, trở thành một hoạt động truyền thống hàng năm mang tính chất phát triển du lịch, văn hóa cộng đồng. Năm 2019, phở được lọt vào top 10 món ăn tuyệt vời nhất thế giới do CNN bình chọn. Và còn một điểm khá thú vị nữa liên quan đến những văn nhân viết về phở mà chúng tôi vừa hoài niệm, đó là năm 2020 vừa tròn 120 năm ngày sinh Tú Mỡ (nhà thơ sinh năm 1900), 110 năm ngày sinh Thạch Lam và Nguyễn Tuân (hai nhà văn cùng sinh năm 1910) và tròn 10 năm ngày mất nhà văn Băng Sơn (2010). Bài viết nhỏ này cũng như một nén tâm nhang tưởng nhớ các tiền bối giờ đang mênh mang trên chốn phiêu diêu…

(Đỗ Anh Vũ – Báo Đại Đoàn Kết)

Tags:

Bài viết khác

Bánh ít lá gai – Tinh hoa ẩm thực và ký ức người miền Trung

Bánh ít lá gai không chỉ là món quà quê mộc mạc của người miền Trung, mà còn là biểu tượng văn hóa đặc trưng, gắn bó mật thiết với đời sống, phong tục và ký ức của bao thế hệ nơi dải đất đầy nắng gió.

Vịt nấu chao hương vị miền tây

Nhắc đến vịt nấu chao, người ta thường nhớ ngay một góc bếp miền Tây, nơi mùi chao quyện với khói lửa và tiếng nói cười xôm tụ. Món ăn ấy không chỉ đơn thuần là thức quà ngon miệng, mà còn là câu chuyện của ruộng đồng, của bến nước, của những buổi chiều mưa tầm tã rồi cả nhà ngồi quây quần bên nồi lẩu nghi ngút khói.

Lẩu cá linh bông điên điển – Hương vị mùa nước nổi miền Tây

Đến miền Tây độ tháng 8, tháng 9, khi con nước từ thượng nguồn Mekong đổ về mênh mông bưng biền, cá linh theo dòng lũ về đầy ghe. Cá linh đầu mùa béo tròn, xương mềm, thịt ngọt thơm đặc trưng mà chỉ ai từng ăn mới hiểu được cái ngon riêng biệt ấy.

Mắm Chua Tây Ninh – Tinh Hoa Ẩm Thực Vùng Đất Thánh

Mắm chua Tây Ninh – món đặc sản dân dã nhưng đầy lôi cuốn – là sự giao thoa độc đáo giữa văn hóa ẩm thực Khmer và tinh thần sáng tạo của người dân bản địa. Với vị chua dịu, mặn vừa và hương thơm đậm đà, mắm chua không chỉ là món ăn mà còn là ký ức tuổi thơ của bao người con miền Đông Nam Bộ.

Bún chả Hà Nội – Hồn phố cổ trong từng làn khói bếp than

Nếu phở là linh hồn của bữa sáng Hà Nội, thì bún chả lại là nốt nhạc trầm đầy mê hoặc của buổi trưa ở Thủ đô. Không ai biết chính xác bún chả xuất hiện từ bao giờ – chỉ biết rằng từ những con phố nhỏ trong khu phố cổ đến các ngõ sâu thăm thẳm, mùi thịt nướng thơm lừng trên bếp than hoa vẫn cứ nhẹ nhàng len lỏi vào ký ức của biết bao người con Hà Nội.

Gỏi đọt mây tôm càng nướng – Món ngon níu chân người ở Bình Phước

Bình Phước – vùng đất đỏ bazan ngập nắng gió, nơi rừng và người sống chan hòa như một bản tình ca đại ngàn. Ở đó, không chỉ có điều, có tiêu, có cao su bạt ngàn, mà còn có những món ăn mộc mạc mà độc đáo đến lạ lùng – như gỏi đọt mây tôm càng nướng. Chẳng cần sơn hào hải vị, chỉ cần một dĩa gỏi đơn sơ giữa trưa hè oi ả, cũng đủ làm nên câu chuyện đáng nhớ về hương vị của đất và người.

Cá om nghệ - Món ngon dân dã đậm vị quê

Quảng Ngãi – mảnh đất miền Trung đầy nắng gió không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, con người hiền hậu mà còn hấp dẫn du khách bởi nền ẩm thực mang đậm hồn quê. Một trong những món ăn dân dã, mộc mạc nhưng khiến bao người phải lưu luyến khi rời xa chính là cá om nghệ – đặc sản trứ danh của người dân xứ Quảng.

Ẩm thực miền Tây: Gỏi sầu đâu khô cá sặc

Gỏi sầu đâu là món trộn (nộm). Nguyên liệu chủ đạo là sầu đâu, loài cây thân mộc có nguồn gốc tự nhiên trên vùng Châu Đốc. Dường như thiên nhiên đã quá hào phóng khi ban tặng cho vùng Châu Đốc cây sầu đâu. Chúng tự đâm chồi từ những hạt già rồi tự lớn, vươn màu xanh mát trước khi đơm những chùm búp hoa trăng trắng làm món ngon cho đời.
Top