banner 728x90

Linh vật trong văn hóa truyền thống Việt Nam

13/03/2025 Lượt xem: 2862

Linh vật được sử dụng như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt ý niệm và niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng; góp phần quan trọng phản ánh diễn trình phát triển của nghệ thuật thuật tạo hình Việt Nam.

Cặp rồng đá khu di tích Thành Cổ Loa, Hà Nội.

Linh vật là những con vật trong huyền thoại hoặc có thật được linh thiêng hóa, bao gồm: rồng, phượng, nghê, lân, sư tử, voi, ngựa…

Trong truyền thống văn hóa Việt, linh vật được sử dụng như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt ý niệm và niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng… Bên cạnh đó, linh vật cũng góp phần quan trọng phản ánh diễn trình phát triển của nghệ thuật tạo hình Việt Nam.

Những loại linh vật này do người Việt Nam trực tiếp sáng tạo ra hoặc là sản phẩm của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa bên ngoài. Trong quá trình đó, linh vật vừa mang những đặc điểm chung, phù hợp với truyền thống văn hóa Việt vừa có những biển đổi, thể hiện phong cách nghệ thuật đặc trưng của mỗi thời kỳ.

Rồng, sư tử, nghê và phượng là những linh vật xuất hiện phổ biến.

Thời Lý-Trần, Phật giáo là quốc giáo. Bởi vậy, hình tượng rồng thời kỳ này cũng chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo.

Rồng thời Lý-Trần có tính biểu tượng cao và đặc điểm tạo hình đẹp, thống nhất (uốn lượn đều đặn, thắt túi nhỏ dần về đuôi; tùy từng môtíp trang trí lớn hay nhỏ mà con rồng có vẩy hoặc không). Thời kỳ này, hình tượng rồng thường xuất hiện trong các công trình kiến trúc (dùng để trang trí thành bậc, bệ thờ, ngói…); là điểm nhấn trang trí tạo nên vẻ đẹp của nhiều di tích như Hoàng thành Thăng Long, chùa Thầy (Hà Nội), chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chù Phổ Minh (Nam Định)…

Đến thời kỳ Lê sơ, Nho giáo phát triển mạnh. Tạo hình rồng có nhiều thay đổi, rời xa tạo hình thời Lý-Trần. Rồng trở thành biểu tượng cho uy quyền nhà vua. Ví dụ, những con rồng trên bia lăng các vua Lê (Thanh Hóa) có tạo hình đầu to, bờm tóc thô dày, mũi lớn, nhiều sợi ria, sừng vặn xoắn ốc rồi chẻ chạc, chân gân guốc xòe rộng các ngón…

Bảo vật quốc gia Thành bậc thời Lê trung hưng

Tới thời Mạc, Lê Trung Hưng, hình tượng rộng tiếp tục có nhiều biến đổi: đầu cân đối, đường cong trán lớn, hàm mở rộng vừa phải có răng nanh phô diễn uy quyền, bờm được chạm khắc uyển chuyển như đang chuyển động…

Trong các kiến trúc làng xã, đặc biệt là ở xứ Đoài, tạo hình rồng mang nhiều yếu tố dân gian: cặp mắt to tròn, tai xòe rộng, hàm mở rộng…

Hình tượng sư tử trong các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc, tượng thờ truyền thống được du nhập vào Việt Nam qua con đường Phật giáo. Sư tử thường được coi là linh vật bảo hộ cho các đền, chùa.

Theo phó giáo sư-tiến sỹ Tống Trung Tín (Hội Khảo cổ học Việt Nam), thời gian qua, có nhiều người nhầm lẫn trong việc sử dụng hình tượng linh vật này (không phân biệt được sự khác nhau giữa sư tử đá của Việt Nam và sư tử đá của Trung Quốc.

Đôi sư tử đá chùa – đền Bà Tấm, Gia Lâm (Hà Nội).

Ở Việt Nam, sư tử đá là những con sư tử dạng cách điệu, được chạm khắc công phu, trau chuốt với những đường nét mềm mại, mang nhiều nét dân gian, có phần gần giống hổ hoặc lân; biểu hiện rất rõ sức mạnh phi phàm nhưng vẫn giữ được dáng vẻ vẫn hết sức gần gũi, bao dung.

Trong khi đó, ở Trung Quốc, sư tử đá là linh vật để canh mộ có hình thức dữ dằn, gân guốc với dáng vẻ đe dọa. Khi du nhập vào Việt Nam theo kiểu sao y bản chính, những con sư tử đá này ngang nhiên “chễm chệ” ở lối ra vào các đình, chùa, công sở và một số nhà dân với ý nghĩa giúp phát tài phát lộc.

Hiện nay, giới nghiên cứu vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về hình tượng linh vật này: có ý kiến cho rằng, đó là một con vật thần thoại (vốn là con của rồng) nhưng cũng có ý kiến cho rằng, đó là con chó được thiêng hóa để phụng sự các vị thần.

Tạo hình nghê ở Việt Nam có nhiều dạng khác nhau: khi thì uy nghi, lúc lại đùa giỡn thân thiện. Hình tượng nghê phát triển mạnh vào thời kỳ Lê Trung Hưng, được sử dụng để trang trí các công trình kiến trúc, phù điêu, đồ gốm sứ, đứng chầu bên hương án, cửa khám…

Đôi nghê đá (thế kỷ 17)

Với tạo hình gần gũi, ngoài chức năng là một chỉ hiệu về cõi thiêng, nghê còn mang trong mình ý nghĩa biểu tượng về cầu mong mưa thuận gió hòa, gắn với tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp.

Thời Lý-Trần, hình tượng phượng được sử dụng nhiều trong các mảng chạm khắc tại các công trình kiến trúc hay những tác phẩm điêu khắc trang trí, biểu trưng cho yếu tố nữ.

Ở thời kỳ này, phượng có lối tạo hình chung: nhìn nghiêng, hai con đăng đối ứng trong lá đề, phía dưới là một hình mây xoắn, lông đuôi dài bay uốn lượn lên phía trên. Phía trong cốt đuôi được thể hiện thành những chấm tròn chạm thành dải dài lượn sóng và chạy dài nhỏ dần về cuối. Hai cánh phượng dang rộng. Cổ phượng ngắn, mắt tròn, đầu nhỏ, bờm gáy cũng đang bay vút lên phía trên.

Bức điêu khắc gỗ hình phượng tại chùa Thái Lạc, Hưng Yên.

Từ thời Lê về sau, tạo hình phượng có nhiều thay đổi theo lối dân gian gần gũi, hình khối tự nhiên; được dùng để trang trí trên những cấu kiện gỗ ở các công trình kiến trúc, đồ thờ.

Ban Nghiên cứu VHTN

 

Tags:

Bài viết khác

Chùa – nghè Cù Tu: Di tích gắn liền với Thái sư Trần Thủ Độ

Chùa Cù Tu, còn gọi là chùa Cảm Hóa Tự, tọa lạc tại xã Xuân Phúc, tỉnh Hưng Yên. Đây là nơi thờ Phật, đồng thời thờ Thái sư Thượng phụ Trần Thủ Độ và Pháp Vân – một trong bốn vị thần thuộc đạo Tứ Pháp.

Thành cổ Diên Khánh - Chứng nhân lịch sử của thời mở cõi phương Nam

Cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 10 km về phía tây, thành cổ Diên Khánh (thuộc xã Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) vẫn lặng lẽ đứng đó như một chứng nhân của thời mở cõi, gắn liền với những bước chân khai phá về phương Nam hơn hai thế kỷ trước. Dẫu trải qua bao biến thiên của lịch sử, công trình vẫn giữ nguyên vẻ uy nghi, cổ kính, là minh chứng sống động cho một giai đoạn hình thành và phát triển của vùng đất Khánh Hòa xưa.

Láng Le – Bàu Cò: Dấu son bất diệt của đất anh hùng

Giữa vùng đất phía Tây Nam, nơi dòng chảy hiện đại hòa cùng ký ức lịch sử hào hùng, Láng Le – Bàu Cò (xã Tân Nhựt, Tp. Hồ Chí Minh) vẫn là biểu tượng bất diệt của tinh thần yêu nước và lòng kiên trung của người dân Nam Bộ.

Đình Thoại Ngọc Hầu và Bia Thoại Sơn: Dấu ấn lịch sử trên vùng đất huyền thoại

Thoại Sơn (An Giang) là vùng đất nổi bật với địa hình đa dạng và nhiều danh lam thắng cảnh như hồ Ông Thoại, núi Ba Thê, Linh Sơn Tự, tượng Phật bốn tay, bàn chân Tiên... Trong đó, đình Thoại Ngọc Hầu là một di tích đặc biệt về mặt lịch sử – văn hóa, gắn liền với danh thần Thoại Ngọc Hầu, người có công lớn trong việc khai phá và phát triển vùng đất phương Nam dưới triều Nguyễn.

Chùa Linh Sơn Bửu Thiền: Dấu ấn văn hóa hơn 200 năm trên đỉnh núi Thị Vải

Ẩn mình giữa núi rừng hùng vĩ ở độ cao hơn 400m so với mực nước biển, chùa Linh Sơn Bửu Thiền tọa lạc tại phường Phú Mỹ, TP.HCM (trước đây thuộc phường Phú Mỹ, TP.Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) là một trong những ngôi cổ tự có giá trị văn hóa – tâm linh đặc sắc tại Đông Nam Bộ. Không chỉ nổi bật bởi kiến trúc độc đáo, chùa còn lưu giữ giai thoại về vua Gia Long, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa – lịch sử dân tộc.

Bài 2: Dòng họ Trịnh Bá Yên Lộ đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc

Từ rất xa xưa, làng Yên Lộ có bốn họ: Trịnh, Đinh, Đỗ, Lưu về đây sinh sống, thấy mảnh đất trù phú, tốt tươi đã cùng nhau xây dựng lập lên làng Yên Lộ

Bài 1: Làng Yên Lộ trong dòng chảy lịch sử dân tộc

Làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội (xưa là An Lộ trang, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam) nằm trong “Tam Lộ, Ngũ Lãm” là một trong những làng Việt cổ đại (Kẻ Yên – Kẻ Tuân – Kẻ Do – Kẻ Nghĩa – Kẻ Sốm được hình thành với quá trình dựng nước của dân tộc từ thủa các Vua Hùng) cách Ba La Bông Đỏ chừng 2 km, ngụ bên bờ trái đoạn thượng nguồn dòng Hát Giang nay là sông Đáy thuộc châu thổ sông Hồng.

Chiến khu Đ – Di tích quốc gia đặc biệt giữa rừng Mã Đà (Đồng Nai)

Nằm giữa vùng rừng nguyên sinh Mã Đà, xã Trị An, tỉnh Đồng Nai (trước đây thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), Chiến khu Đ là một trong những di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Đây từng là căn cứ địa chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nơi hun đúc tinh thần yêu nước, kiên cường của quân dân miền Đông Nam Bộ.
Top