
Đề thi: Em hãy phân tích truyện ngắn “Quê hương” của nhà văn Đào Quốc Thịnh.
Dàn ý tham khảo của thầy Nguyễn Lý Tưởng - GV trường THCS Bình Minh - Thị xã Nghi Sơn - Thanh Hóa
(Tel: 0986217081)
QUÊ HƯƠNG
Cả lớp lặng im, những con mắt đổ dồn về phía tôi khi nghe tôi đọc xong bài văn tả phong cảnh quê hương được cô giáo cho điểm cao nhất lớp hôm nay. Cô giáo đi lại gần, hỏi tôi thoáng một chút nghi ngờ:
- Là một học sinh thành phố, làm thế nào mà em có thể viết được một bài văn tả quê hương sâu sắc, chân thật và gần gũi đến như vậy?!
- Thưa cô… bà em… giúp em ạ!
- Sao? Em vừa nói gì? Bà em viết hộ em à?
- Thưa cô, không ạ!... vâng, đúng ạ!
Tôi nhìn ra hàng phượng vĩ trước sân trường và chợt nhớ đến mùa hè năm ấy… Tháng 5, bố đưa tôi về quê nội. Quê nội tôi, một xóm nghèo bên kia sông Hồng. Biết bao lần, tôi đã mơ ước được về thăm quê, thăm bà, thế nhưng mới bước chân lên con đường làng lầy lội, lớp nhớp bùn sau cơn mưa, nhìn những mái nhà tranh thấp tè ẩm ướt sau luỹ tre làng, tôi đã bắt đầu thất vọng. Tôi không dám cằn nhằn nhưng ấm ức nghĩ thầm: "Sao mà bẩn thế! Biết thế này, mình chẳng đòi bố cho về nữa".
Bố tôi tươi cười chào người làng, có lúc lại còn đứng lại nói chuyện với một bác gánh phân. Bữa cơm trưa hôm ấy, bà tôi tấm tắc khen ngon và gắp vào bát tôi miếng thịt luộc. Tôi gắp ra nhăn mặt: "Mỡ thế này, cháu ăn làm sao được!"
Bố chan cho tôi canh cua, mới ăn được một miếng tôi đã vội kêu lên: "Canh chưa cho mì chính, nhạt lắm, lại hoi hoi, con ăn chưa quen…". Cả nhà lặng người. Bố tôi tái mặt vì giận…
Tối hôm ấy trăng rằm, bà tôi kê ghế ra ngoài sân nhặt khoai lang và kể cho tôi nghe đủ mọi chuyện. Bà kể rằng, bố tôi đã từ nơi này ra đi. Và chính nơi này, bố tôi đã lớn lên bằng lời ru của bà, bằng đôi tay ẵm bồng của bao người. Bà đã từng mớm cơm cho tôi, nuôi tôi khôn lớn ở đây... Tình cảm quê mùa nhưng chân thật. Bà chỉ tay về phía góc trời sáng rực lên và bảo đó là Hà Nội. Bà bảo rằng: " ở Hà Nội sướng hơn ở quê nên ai ai cũng ước ao được sống ở Hà Nội, còn bà thì bà thích ở quê hơn vì bà quen mất rồi. Nếu cháu cứ ở Hà Nội mãi, sẽ chẳng bao giờ biết được ánh trăng ở quê đẹp như thế nào đâu!"
Tôi ngước nhìn lên bầu trời xanh thẳm không một gợn mây chi chít những vì sao. Trăng treo lơ lửng trên đầu ngọn tre in đậm lên nền trời. Anh trăng trùm lấy mái nhà và khu vườn rau xanh tốt của bà. Lúc ấy, tôi bỗng nắm chặt lấy tay bà và thốt lên:
"Bà ơi! Trăng ở quê đẹp thật bà ạ!..."
Sau mùa hè năm ấy, bà nội tôi đã ra đi mãi mãi. Hè nào tôi cũng xin bố cho về thăm quê. Quê nội tôi bây giờ cũng khác hẳn, chẳng còn một tý dấu vết nào của ngày xưa nữa. Những dãy nhà hai, ba tầng san sát nhau mọc lên như nấm. Không ai còn nhớ nổi bóng dáng luỹ tre xanh….Tôi cầm bút viết, dồn tất cả tình cảm nhớ thương sâu đậm với bà vào bài tập làm văn tả phong cảnh quê hương hôm ấy… Tôi viết về quê hương tôi với luỹ tre xanh mát rượi và ánh trăng rằm dịu ngọt. Phải rồi, tôi bỗng hiểu ra rằng: chính bà đã làm xanh mãi ước mơ của tôi./.
(Nguồn: Tạp chí UMX – NXB.TN năm 1996 và tái bản trên Tạp chí Thương hiệu và Công luận ngày 01/08/2018)
Chú thích:
Đào Quốc Thịnh sinh ngày 18/04/1957 tại Hà Nội. Ông là một nhà báo, nhà văn, là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Hiện tại ông là Giám đốc Văn phòng Đại diện phía Nam, Viện Nghiên cứu Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam, Trưởng Đại diện Tạp chí Thương hiệu & Công luận tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Đào Quốc Thịnh bắt đầu viết văn, viết báo từ năm 1996 với nhiều thể loại: truyện ngắn, phóng sự, ký sự. Ngoài ra ông còn viết kịch bản phim tài liệu. Gần 30 năm cầm bút, ông có gần 50 truyện ngắn, trong đó có cả truyện ngắn viết cho thiếu nhi và hàng trăm tác phẩm báo chí có giá trị.
Đào Quốc Thịnh là một cây bút có phong cách sáng tác độc đáo: khai thác những đề tài quen thuộc với góc nhìn chân thực, sắc sảo và tinh tế. Ông thường sử dụng ngôn ngữ bình dị, gần gũi với người đọc để chuyển tải những thông điệp sâu sắc về xã hội và nhân sinh. Quê hương (1996) là truyện ngắn đầu tay của tác giả.
DÀN Ý
A. MỞ BÀI:
- Trong văn học Việt Nam hiện đại, những tác phẩm viết về quê hương và tình cảm gia đình luôn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi sự mộc mạc, chân thành nhưng chan chứa cảm xúc.
- Quê hương của nhà văn Đào Quốc Thịnh là một truyện ngắn tiêu biểu, phản ánh một cách tinh tế sự trưởng thành trong nhận thức và cảm xúc của một đứa trẻ thành phố khi tiếp xúc với không gian làng quê và tình bà cháu.
- Tác phẩm gợi nhắc người đọc về vẻ đẹp giản dị của quê nhà, sự yêu thương của bà và sự hồi tưởng đầy xúc động về những ký ức tuổi thơ không thể quên.
B. THÂN BÀI:
LUẬN ĐIỂM 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1. Về tác giả
- Là nhà báo, nhà văn nổi bật với lối viết gần gũi, chân thực và đậm chất nhân văn.
- Ông thường khai thác đề tài gia đình, ký ức, quê hương với giọng văn mộc mạc, sâu lắng.
- Quê hương là truyện ngắn đầu tay của ông đăng trên Tạp chí UMX – NXB.TN năm 1996, nhưng đã thể hiện rõ phong cách sáng tác đặc trưng của ông: dung dị, cảm động và đầy suy tư.
1.2 Về tác phẩm
- Tác phẩm được kể theo ngôi thứ nhất, với nhân vật “tôi” là người kể chuyện.
- Câu chuyện mang tính tự sự, kết hợp với yếu tố hồi tưởng, tạo nên không khí hoài niệm sâu lắng.
- Tác phẩm nhấn mạnh tình cảm bà cháu và những thay đổi trong nhận thức của người cháu sau kỳ nghỉ hè ở quê.
LUẬN ĐIỂM 2: PHÂN TÍCH NỘI DUNG CHỦ ĐỀ CỦA TÁC PHẨM TRUYỆN
2.1 Tóm tắt và nêu chủ đề của truyện
* Tóm tắt: Cô bé sinh ra và lớn lên ở thành phố, trong một dịp nghỉ hè được về quê nội. Ban đầu, cậu cảm thấy thất vọng với làng quê nghèo, lầy lội. Nhưng qua những ngày sống với bà, đặc biệt là đêm trăng rằm và câu chuyện bà kể, cô đã dần thay đổi cách nhìn. Sau này, khi bà đã mất, ký ức ấy trở thành nguồn cảm hứng để cô học trò nhỏ viết nên một bài văn cảm động về quê hương.
* Rút ra chủ đề câu truyện: Truyện ca ngợi tình bà cháu thiêng liêng, sự thay đổi nhận thức của người trẻ về giá trị quê hương và những ký ức tuổi thơ sâu đậm.
2.2. Phân tích các nhân vật trong truyện để làm nổi bật chủ đề
* Phân tích nhân vật chính - “Tôi” – cô bé thành phố trong truyện để làm nổi bật chủ đề
- Hoàn cảnh nhân vật:
+ Là một cô bé sinh ra và lớn lên ở thành phố, vốn quen với tiện nghi hiện đại và lối sống đô thị. Trong một dịp hè, cô được bố đưa về quê nội – một nơi nghèo khó, giản dị, lạc hậu so với hình dung ban đầu của cô.
+ Trải nghiệm ban đầu mang lại sự thất vọng và lúng túng: “mới bước chân lên con đường làng lầy lội, lớp nhớp bùn… tôi đã bắt đầu thất vọng” → cho thấy sự khác biệt về không gian sống và văn hóa giữa thành thị và nông thôn.
- Thiếu kiên nhẫn và thành kiến ban đầu: Khi mới về quê, cô thất vọng trước cảnh vật nghèo nàn: “lầy lội, nhớp nhớp bùn”, “mái nhà tranh thấp tè ẩm ướt”. cô không quen thức ăn quê: “Mỡ thế này, cháu ăn làm sao được!”, “canh chưa cho mì chính, nhạt lắm, lại hoi hoi…”. Cô không dám phản đối công khai nhưng trong lòng ấm ức, có thành kiến với cuộc sống nông thôn.
-> Những lời than phiền thể hiện sự thiếu cảm thông và sự ích kỷ ban đầu, điển hình cho hình ảnh những đứa trẻ hiện đại bị lệ thuộc vào tiện nghi, xa rời giá trị truyền thống.
- Tâm hồn dễ lay động – nhạy cảm và biết lắng nghe
+ Trong khoảnh khắc ngồi với bà dưới ánh trăng, cô bắt đầu cảm nhận được vẻ đẹp của quê nhà và tình cảm thầm lặng từ bà.
+ Khi bà nói: “Nếu cháu cứ ở Hà Nội mãi, sẽ chẳng bao giờ biết được ánh trăng ở quê đẹp như thế nào đâu!”, cô cảm thấy rung động, xúc động thực sự trước vẻ đẹp bình dị.
+ Cô dần thấm thía từng lời kể, từng câu chuyện về người bố đã lớn lên từ mảnh đất ấy.
-> Có khả năng lắng nghe, đồng cảm, tâm hồn nhạy cảm, dễ bị cảm hóa bởi tình cảm chân thành và vẻ đẹp tự nhiên.
- Biết trân trọng và gìn giữ ký ức
+ Sau mùa hè ấy, cô không còn là đứa trẻ coi thường quê hương mà đã “xin bố cho về thăm quê mỗi năm”.
+ Khi viết bài văn về phong cảnh quê hương, cô “dồn tất cả tình cảm nhớ thương sâu đậm với bà” – cho thấy ý thức giữ gìn ký ức và lòng biết ơn sâu sắc.
+ Dù quê đã đổi thay, cô vẫn lưu giữ hình ảnh xưa như một báu vật tinh thần.
-> Biết yêu thương, ghi nhớ công ơn, trân trọng cội nguồn và có sự trưởng thành nội tâm mạnh mẽ.
=> Nhân vật “tôi” tiêu biểu cho hình ảnh của những đứa trẻ sống trong môi trường hiện đại, xa rời quê hương, dễ nảy sinh tâm lý chối bỏ quá khứ. Tuy nhiên, qua một mùa hè ngắn ngủi, nhờ tình yêu thương của bà và vẻ đẹp bình dị nơi làng quê, cô đã trưởng thành về cảm xúc, biết sống chậm lại, biết trân trọng và giữ gìn ký ức. Cô là tâm điểm cảm xúc của truyện, đại diện cho hành trình trưởng thành trong tâm hồn của thế hệ trẻ.
* Phân tích nhân vật phụ - người bà trong truyện để làm nổi bật chủ đề
- Tình yêu thương âm thầm, bền bỉ
+ Không trách mắng cháu dù cháu chê đồ ăn, mà vẫn “gắp thịt vào bát”, “kể chuyện”, “kê ghế ra nhặt khoai”.
+ Câu nói giản dị của bà chính là lời giáo dục nhẹ nhàng: “Bà thích ở quê hơn vì quen mất rồi…”.
-> Ân cần, bao dung, biết nuôi dưỡng tình cảm bằng sự thấu hiểu và kiên nhẫn.
- Gắn bó với quê hương – người gìn giữ ký ức gia đình
+ Bà đại diện cho làng quê: giản dị, nghèo khó nhưng giàu tình nghĩa.
+ Những ký ức mà bà kể về bố, về quá khứ – là cách bà truyền lại lịch sử gia đình và bản sắc văn hóa cho cháu.
-> Trung thành với cội nguồn, là người gìn giữ truyền thống, là “linh hồn” của không gian quê.
- Truyền cảm hứng sống và nhận thức nhân sinh
+ Bà khơi gợi cho cháu ý thức về vẻ đẹp bình dị và sự trân quý những điều nhỏ bé.
+ Khi bà mất, hình ảnh bà, ánh trăng, luỹ tre xanh… vẫn sống mãi trong tâm tưởng cháu và thành chất liệu để viết bài văn về quê hương.
-> Người truyền cảm hứng sống nhân văn, sống chậm, sống gắn bó với đất và người.
=> Bà là người thắp sáng tâm hồn đứa trẻ thành thị bằng tình yêu quê hương, sự bao dung và những kỷ niệm thiêng liêng. Chính bà là “người thầy không lời” giúp cô bé hiểu được vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, giúp biến đổi nhận thức từ chối bỏ sang trân trọng, từ hời hợt sang gắn bó.
LUẬN ĐIỂM 3: PHÂN TÍCH NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC VỀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM:
3.1. Ngôi kể: Câu chuyện được kể lại bằng lời của nhân vật chính – một cô bé học trò thành thị – dưới hình thức hồi tưởng, tạo nên sự gần gũi, chân thực và cảm xúc cá nhân sâu sắc. Ngôi kể này giúp người đọc dễ đồng cảm với quá trình thay đổi trong suy nghĩ, cảm xúc và nhận thức của nhân vật, từ đó nâng cao sức lan tỏa của thông điệp truyện.
3.2. Tình huống: Tình huống không kịch tính nhưng mang chiều sâu tâm lý và có tính giáo dục cao, phù hợp với văn học thiếu nhi và văn học nhân văn.
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật "tôi" không có tên riêng, điều này giúp nhân vật mang tính đại diện rộng hơn cho lớp trẻ hiện đại. Nhân vật bà được xây dựng qua những hành động nhỏ: gắp miếng thịt, kể chuyện, nhặt khoai, chỉ trăng, nói về Hà Nội… → thể hiện bà bằng tình yêu, sự kiên nhẫn, không lên lớp nhưng cảm hóa sâu sắc. Nghệ thuật xây dựng nhân vật không cần mô tả nội tâm phức tạp, mà thông qua hành động và lời thoại ngắn gọn nhưng giàu sức gợi.
3.4. Ngôn ngữ: Văn phong của truyện ngắn rất tự nhiên, giàu chất nói dân dã, gợi hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc Bộ. Những cụm từ như: “mái nhà tranh thấp tè”, “con đường làng lầy lội”, “ánh trăng rằm dịu ngọt”, “luỹ tre làng”, “kê ghế ra nhặt khoai”… tạo nên một không gian sống động và đầy xúc cảm. Giọng văn đậm chất hồi tưởng, trầm lắng, nhưng có lúc cũng hồn nhiên, đúng với lứa tuổi nhân vật chính – tạo nên sự dung hòa giữa ngôn ngữ trẻ thơ và cảm xúc người lớn.
3.5. Cốt truyện: Không có cao trào hay xung đột gay gắt, nhưng từng chi tiết nhỏ đều dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong tư tưởng nhân vật. Từ cảm giác bực bội ban đầu đến khi thốt lên: “Bà ơi! Trăng ở quê đẹp thật bà ạ!”, rồi là sự tiếc thương và viết bài văn từ nỗi nhớ → tạo nên một cốt truyện mang tính trưởng thành và giáo dục cảm xúc rất rõ. Truyện không cần phức tạp hóa tình tiết, bởi sức hút đến từ sự chân thực và cảm xúc lắng đọng.
LUẬN ĐIỂM 4: ĐÁNH GIÁ:
4.1. Nêu khái quát nội dung của câu truyện: Truyện ngắn Quê hương kể về chuyến về quê của một cô bé thành phố trong kỳ nghỉ hè. Ban đầu còn lạ lẫm, khó chịu với cuộc sống thôn quê đơn sơ, cô dần thay đổi khi sống bên bà nội – người phụ nữ hiền hậu, giàu tình yêu thương. Qua những trải nghiệm giản dị như bữa cơm quê, đêm trăng rằm, câu chuyện về cha, cô cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương và tình cảm gia đình. Khi bà mất, quê hương đổi thay, nhưng ký ức về bà và mùa hè năm ấy vẫn sống mãi trong lòng cô học trò đó, trở thành nguồn cảm hứng cho bài văn giàu cảm xúc viết về quê hương yêu dấu.
4.2 Rút ra thông điệp, bài học rút ra từ câu chuyện: Truyện Quê hương gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình cảm và giá trị sống. Tình bà cháu thiêng liêng, âm thầm nhưng đầy sức mạnh đã nuôi dưỡng tâm hồn đứa cháu lớn lên trong yêu thương và nhận thức. Quê hương không chỉ là nơi chốn, mà là nơi lưu giữ ký ức, tình cảm và bản sắc riêng của mỗi người. Trưởng thành trong suy nghĩ không đến từ những điều to tát, mà từ sự thấu hiểu và trân trọng những điều bình dị, mộc mạc quanh ta.
4.3. Nhận xét về tác giả: Với truyện ngắn Quê hương, Đào Quốc Thịnh đã thể hiện rõ nét phong cách viết dung dị, tinh tế và giàu cảm xúc. Ông không tạo ra những tình huống gay cấn mà nhẹ nhàng dẫn dắt người đọc đi qua những chi tiết nhỏ nhặt nhưng giàu ý nghĩa. Chính sự giản dị ấy lại là sức mạnh lớn nhất: giúp người đọc nhìn lại chính mình, nhận ra rằng trong nhịp sống hiện đại, ta dễ vô tình lãng quên những giá trị gần gũi và sâu xa nhất – đó là gia đình, là ký ức tuổi thơ, là quê hương – nơi từng nuôi lớn những ước mơ đầu đời.
C. KẾT BÀI:
- Quê hương là một truyện ngắn đầy cảm xúc và ý nghĩa, khơi dậy trong mỗi người lòng biết ơn, yêu thương với những người thân, đặc biệt là bà – người gìn giữ tuổi thơ và những giá trị truyền thống.
- Qua truyện, ta thấy rõ rằng quê hương không chỉ là nơi chốn, mà còn là ký ức, là tình cảm, là một phần hồn cốt của con người.
- Tác phẩm là lời nhắn gửi giản dị nhưng sâu sắc: hãy yêu quý những gì ta đang có, vì một ngày nào đó, điều tưởng chừng đơn giản hôm nay sẽ trở thành điều thiêng liêng nhất trong ký ức của mỗi chúng ta./.