banner 728x90

Chiến khu Đ – Di tích quốc gia đặc biệt giữa rừng Mã Đà (Đồng Nai)

17/10/2025 Lượt xem: 2650

Một góc rừng Mã Đà. 

Nằm giữa vùng rừng nguyên sinh Mã Đà, xã Trị An, tỉnh Đồng Nai (trước đây thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), Chiến khu Đ là một trong những di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Đây từng là căn cứ địa chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nơi hun đúc tinh thần yêu nước, kiên cường của quân dân miền Đông Nam Bộ.

Chiến khu Đ được thành lập vào tháng 2 năm 1946, trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Vị trí chiến lược giữa rừng sâu Mã Đà đã biến nơi đây trở thành “thủ phủ kháng chiến” của Mặt trận Việt Minh, sau này là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Nhà được lợp bằng lá trung quân trong khu di tích Chiến khu Đ. (Ảnh: Baobinhduong.vn)

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Trung ương Cục miền Nam đã chọn Chiến khu Đ làm căn cứ để mở hành lang chiến lược nối từ miền Đông Nam Bộ với tuyến Trường Sơn, tiếp nhận sự chi viện từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Từ nơi này, nhiều chiến dịch lớn đã được phát động, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng.

Chiến khu Đ ngày nay thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên – văn hóa Đồng Nai, với diện tích hơn 97.000 ha, bao gồm hệ sinh thái rừng nguyên sinh, hồ Trị An và nhiều cụm di tích lịch sử quan trọng. Trong đó, có ba di tích đã được công nhận cấp quốc gia, gồm:

- Địa đạo Suối Linh: Một công trình quân sự độc đáo, với hệ thống địa đạo dài hơn 600 mét, được thiết kế nhiều tầng, có lỗ thông hơi, hầm trú ẩn, hầm chỉ huy và hệ thống giao thông hào liên hoàn. Địa đạo Suối Linh thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt trong chiến lược phòng thủ và tác chiến du kích của quân dân ta.

Bia khắc bức phù điêu 3 chiến sĩ du kích đánh trận Tháp canh cầu Bà Kiên nhắc nhở thế hệ sau về chiến công vang dội của du kích Chiến khu Đ. (Ảnh: Baobinhduong.vn) 

- Căn cứ Trung ương Cục miền Nam: Được xây dựng trong giai đoạn 1961–1962, nơi đây là trung tâm chỉ đạo chiến trường của cơ quan đầu não kháng chiến. Di tích hiện còn nhà bia tưởng niệm, nhà trưng bày tư liệu, đền thờ các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục – tất cả đều mang đậm phong cách kiến trúc Nam Bộ.

- Khu ủy miền Đông Nam Bộ: Đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo các chiến dịch lớn từ năm 1962–1967. Tại đây, các chiến dịch như Lạc An, Tân Uyên, cầu Bà Kiên... đã được chỉ huy, tạo nên thế trận vững chắc cho chiến trường miền Đông.

Chiến khu Đ nằm cách TP.Hồ Chí Minh khoảng 80 km, là điểm đến lý tưởng cho các hành trình “về nguồn”, dã ngoại... du khách có thể di chuyển theo quốc lộ 1A hoặc 1K đến ngã ba Trị An (Đồng Nai), rẽ vào thị trấn Vĩnh An, theo tỉnh lộ ĐT 767 và ĐT 761 để đến xã Mã Đà. Qua trạm kiểm lâm, đi tiếp khoảng 35 km là đến khu di tích. Đường đi xuyên rừng, hai bên là cây sao, dầu, bằng lăng, săng lẻ… tạo nên khung cảnh hùng vĩ nhưng cũng đầy chất thơ.

Khu di tích có khu lưu trú đơn sơ, cho phép cắm trại, đốt lửa trại, tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể. Vé tham quan hiện tại chỉ 15.000 đồng/người – rất phù hợp cho các chương trình trải nghiệm, học tập truyền thống cách mạng của học sinh, sinh viên.

Sau chiến tranh, vùng rừng Mã Đà từng bị tàn phá nặng nề bởi bom đạn và chất độc hóa học. Thế nhưng thiên nhiên đã hồi sinh kỳ diệu. Hôm nay, Chiến khu Đ trở thành một phần của hệ sinh thái rừng đặc dụng rộng lớn, với hàng trăm loài cây bản địa quý hiếm, trong đó có mật nhân (bá bệnh), lành ngạnh, thiên niên kiện…

Rừng Mã Đà. Ảnh: Đ.N

Bên cạnh giá trị lịch sử, Chiến khu Đ còn là trung tâm bảo tồn sinh học, nơi kết nối văn hóa – sinh thái – tâm linh của nhiều cộng đồng dân tộc như Chơ Ro, S’tiêng, Mạ… sống rải rác quanh khu vực.

Chiến khu Đ không chỉ là chứng tích chiến tranh, mà còn là biểu tượng tinh thần của lòng yêu nước, ý chí bất khuất và khát vọng hòa bình. Việc bảo tồn, phát huy giá trị khu di tích là trách nhiệm không chỉ của chính quyền mà còn của toàn xã hội – để những trang sử hào hùng tiếp tục được kể lại cho thế hệ mai sau.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

Tags:

Bài viết khác

Chùa – nghè Cù Tu: Di tích gắn liền với Thái sư Trần Thủ Độ

Chùa Cù Tu, còn gọi là chùa Cảm Hóa Tự, tọa lạc tại xã Xuân Phúc, tỉnh Hưng Yên. Đây là nơi thờ Phật, đồng thời thờ Thái sư Thượng phụ Trần Thủ Độ và Pháp Vân – một trong bốn vị thần thuộc đạo Tứ Pháp.

Thành cổ Diên Khánh - Chứng nhân lịch sử của thời mở cõi phương Nam

Cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 10 km về phía tây, thành cổ Diên Khánh (thuộc xã Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) vẫn lặng lẽ đứng đó như một chứng nhân của thời mở cõi, gắn liền với những bước chân khai phá về phương Nam hơn hai thế kỷ trước. Dẫu trải qua bao biến thiên của lịch sử, công trình vẫn giữ nguyên vẻ uy nghi, cổ kính, là minh chứng sống động cho một giai đoạn hình thành và phát triển của vùng đất Khánh Hòa xưa.

Láng Le – Bàu Cò: Dấu son bất diệt của đất anh hùng

Giữa vùng đất phía Tây Nam, nơi dòng chảy hiện đại hòa cùng ký ức lịch sử hào hùng, Láng Le – Bàu Cò (xã Tân Nhựt, Tp. Hồ Chí Minh) vẫn là biểu tượng bất diệt của tinh thần yêu nước và lòng kiên trung của người dân Nam Bộ.

Đình Thoại Ngọc Hầu và Bia Thoại Sơn: Dấu ấn lịch sử trên vùng đất huyền thoại

Thoại Sơn (An Giang) là vùng đất nổi bật với địa hình đa dạng và nhiều danh lam thắng cảnh như hồ Ông Thoại, núi Ba Thê, Linh Sơn Tự, tượng Phật bốn tay, bàn chân Tiên... Trong đó, đình Thoại Ngọc Hầu là một di tích đặc biệt về mặt lịch sử – văn hóa, gắn liền với danh thần Thoại Ngọc Hầu, người có công lớn trong việc khai phá và phát triển vùng đất phương Nam dưới triều Nguyễn.

Chùa Linh Sơn Bửu Thiền: Dấu ấn văn hóa hơn 200 năm trên đỉnh núi Thị Vải

Ẩn mình giữa núi rừng hùng vĩ ở độ cao hơn 400m so với mực nước biển, chùa Linh Sơn Bửu Thiền tọa lạc tại phường Phú Mỹ, TP.HCM (trước đây thuộc phường Phú Mỹ, TP.Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) là một trong những ngôi cổ tự có giá trị văn hóa – tâm linh đặc sắc tại Đông Nam Bộ. Không chỉ nổi bật bởi kiến trúc độc đáo, chùa còn lưu giữ giai thoại về vua Gia Long, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa – lịch sử dân tộc.

Bài 2: Dòng họ Trịnh Bá Yên Lộ đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc

Từ rất xa xưa, làng Yên Lộ có bốn họ: Trịnh, Đinh, Đỗ, Lưu về đây sinh sống, thấy mảnh đất trù phú, tốt tươi đã cùng nhau xây dựng lập lên làng Yên Lộ

Bài 1: Làng Yên Lộ trong dòng chảy lịch sử dân tộc

Làng Yên Lộ, Yên Nghĩa, Hà Nội (xưa là An Lộ trang, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam) nằm trong “Tam Lộ, Ngũ Lãm” là một trong những làng Việt cổ đại (Kẻ Yên – Kẻ Tuân – Kẻ Do – Kẻ Nghĩa – Kẻ Sốm được hình thành với quá trình dựng nước của dân tộc từ thủa các Vua Hùng) cách Ba La Bông Đỏ chừng 2 km, ngụ bên bờ trái đoạn thượng nguồn dòng Hát Giang nay là sông Đáy thuộc châu thổ sông Hồng.

Chùa Việt Nam Quốc Tự: Biểu tượng lịch sử của Phật giáo Việt Nam đương đại

Chùa Việt Nam Quốc Tự không chỉ là công trình tôn giáo mang đậm dấu ấn kiến trúc Phật giáo Bắc Tông tại TP.Hồ Chí Minh, mà còn là biểu tượng gắn liền với một giai đoạn đấu tranh lịch sử đầy biến động của Phật giáo Việt Nam vào đầu thập niên 1960. Sự ra đời, trùng tu và phát triển của ngôi chùa này phản ánh những chuyển biến quan trọng trong mối quan hệ giữa Phật giáo và xã hội Việt Nam hiện đại.
Top