banner 728x90

Ý nghĩa chuông, trống Bát Nhã trong thiền môn

04/07/2025 Lượt xem: 2581

Trong nhà Phật, mỗi một pháp cụ đều có một ý nghĩa đặc biệt, riêng có. Tiếng trống, tiếng mõ hay tiếng chuông trong thiền gia khi cất lên lên đều ngầm có ý là cảnh tỉnh mọi người nên thức tỉnh tu hành. Và mỗi pháp cụ khi sử dụng, đều có phương pháp và cách thức riêng.

Chuông trống Bát Nhã rất quan trọng trong thiền môn. Chuông là một loại pháp khí được đúc bằng kim loại, phát ra âm thanh vang rền và thanh thoát, hình dáng của chuông được làm theo các hình tháp hay hình bát rỗng.

Chuông được coi là biểu trưng cho trí tuệ. Mỗi khi âm thanh huyền diệu ngân vang thì đó chính là lời triệu gọi làm tỉnh giấc bao tâm hồn đang ngủ say trong lầm mê, khổ ải và thanh lọc bao cõi lòng của người con Phật.

Chuông được coi là biểu trưng cho trí tuệ. (Hình minh họa)

Tiếng chuông vang lên dứt trừ vọng nghiệp trần thế, thông suốt khắp mười phương, thấu đến cõi địa ngục, vạn loài chúng sinh khi nghe thấy liền bớt đau khổ và được giải thoát. Tam đường (địa ngục, ngã quỷ, súc sinh) cùng Bát nạn được tiêu tan. Lại nữa, tiếng chuông thanh thoát của thiền môn có thể giúp cho loài quỷ đói được nhẹ bớt lòng tham, sân, si mà giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Trống là một trong những loại nhạc khí được sử dụng rộng rãi thường làm bằng đá, cây, đồng… Tùy thuộc vào mục đích của người sử dụng mà nó có công năng khác nhau, nhưng riêng ở Phật giáo, tiếng trống tượng trưng cho chánh pháp và là âm thanh truyền tải giai điệu thuần khiết cho đời sống tâm linh. Đây là một trong những phương tiện để nhắc nhở người con Phật luôn sống bằng lòng chân thật, không giả dối, cảm thông, sẻ chia,… Chúng sinh mỗi khi nghe tiếng trống chánh pháp ấy thì tội chướng được tiêu trừ và cũng nhờ đó mà được giải thoát vào cảnh giới an lạc, nơi chư Phật đón chờ.

Tiếng trống tượng trưng cho chánh pháp và là âm thanh truyền tải giai điệu thuần khiết cho đời sống tâm linh.

“Bát Nhã” tiếng Sanscrit là Prajnà, tiếng Pali là Panna, chữ Hán dịch là Trí tuệ hay Tuệ minh. Đó là một loại trí tuệ sáng suốt, thanh tịnh, không còn bị chi phối bởi phiền não, uế trược, phiền hà. Đó là trí tuệ đệ nhất. Bát nhã là mầm mống trí tuệ siêu việt, cao tột, thậm thâm vi diệu, vốn sẵn có trong mỗi người nhưng vì bị vô minh, ái dục che mờ nên con người không tự biết.

Vì vậy, tiếng chuông, tiếng trống là hai thứ tiếng có sức mạnh thúc giục giúp cho con người khai sáng tiềm lực, mở thông trí tuệ, hiện hữu. Tiếng chuông trống Bát Nhã kêu gọi con người thức tỉnh, thôi thúc con người thắp lên ngọn đèn trí tuệ soi sáng con đường đi đến giải thoát. Một khi trí tuệ và chánh pháp hòa vào nhau thì sẽ tạo âm vang vào lòng người, đánh động lương tri, khơi dậy thiện căn và cũng là ngọn nến thắp sáng bóng tối vô minh, tìm ra Phật tính. Đó cũng chính là lúc con đường giác ngộ được mở thông, hạt giống bồ đề trong tâm thức được tăng trưởng.

Tiếng chuông trống Bát Nhã kêu gọi con người thức tỉnh, thôi thúc con người thắp lên ngọn đèn trí tuệ soi sáng con đường đi đến giải thoát.

Chuông trống Bát Nhã thường đánh lên vào những buổi lễ pháp sự đặc biệt, như thuyết pháp, truyền giới, sám hối, cung thỉnh các giảng sư, chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức và mở đầu hoặc kết thúc một quyển kinh… Và mỗi khi đánh lên ngầm ý thỉnh Phật thượng đường chứng minh. Đồng thời cung nghinh chư Tôn Đức và cũng để cho mọi người chú ý nhiếp tâm trở về với chánh niệm. Về cách thức đánh chuông trống Bát Nhã cho đúng, người đánh cần phải y cứ vào bài kệ:

“Bát nhã hội (3 lần )

Thỉnh Phật thượng đường

Đại chúng đồng văn Bát nhã âm

Phổ nguyện pháp giới đẳng hữu tình

Nhập Bát nhã ba la mật môn ( 3 lần )”.

Muốn đánh chuông trống bát nhã cho đúng theo bài kệ trên, thì người học cần phải học trực tiếp với những vị đã biết qua.

Về ý nghĩa, ngoài âm vang của tiếng trống làm cảnh tỉnh vạn loài chúng sinh ra, âm vang của tiếng trông này còn nhằm nhắc nhở mọi người cần phải trang bị cho mình có đầy đủ trí tuệ sáng suốt, bởi trí tuệ rất quan trọng. Dù cho chúng Tăng tu bất cứ pháp môn nào, mà thiếu trí tuệ chỉ đạo, hướng đường thì coi như sự tu hành bằng không, không đạt đến cảnh giới giải thoát. Nếu không có trí huệ sáng suốt để nhận biết chính tà, gian trá hay thật thà, thì trong khi ứng dụng tu hành sẽ khiến cho người tu dễ bị sai lệch và đi vào con đường tà đạo.

Vì Bát Nhã quan trọng như thế, nên chư Tổ mượn hình thức tiếng trống, để khi đánh lên nhằm thức tỉnh, nhắc nhở chúng Tăng, Ni cũng như Phật tử tại gia phải luôn nhớ đến Phật tính sẵn có ở nơi chính mình mà phát huy Phật tính đó. Khi nghe âm thanh của những pháp khí như trống, chuông, mõ … thì người nghe mau chóng hồi tâm thức tỉnh, tinh tấn để gắng lo tu niệm. Phải hết lòng siêng năng làm lành lánh dữ, không nên gây tạo những nghiệp ác để chuốc lấy quả khổ đau.

Tiếng chuông hay tiếng trống đều là loại pháp khí mang ý nghĩa sâu sắc trong sự tồn tại và phát triển của Phật giáo và mang ý nghĩa tâm linh trong tâm hồn những ai là người con Phật. Hồi chuông, hồi trống vang lên làm cảnh tỉnh mọi người nên thức tỉnh tu hành tìm về bến bờ giác. Vì thế, chuông trống Bát Nhã rất quan trọng trong thiền môn, mỗi khi ngân vang là lời nhắc nhở cho con người trang bị hành trang trí tuệ trên lộ trình giải thoát.

Theo Minh Chính/Báo Phật Giáo

 

 

Tags:

Bài viết khác

Kỳ Lân – Linh Vật Thiêng Liêng Trong Phật Giáo

Trong văn hóa Á Đông, kỳ lân là một trong tứ linh Long – Lân – Quy – Phụng, tượng trưng cho điềm lành, trí tuệ và sự thịnh vượng. Riêng trong Phật giáo, kỳ lân được tôn kính không chỉ bởi hình ảnh huyền thoại mà còn bởi ý nghĩa tâm linh sâu sắc, biểu trưng cho lòng từ bi, chính nghĩa và trí huệ.

Công năng của Thần Chú Vãng Sanh

Trong kho tàng tu tập của Phật giáo Tịnh độ, bên cạnh pháp môn niệm Phật “Nam Mô A Di Đà Phật” được xem là cốt lõi, còn có một mật ngôn được trì tụng phổ biến trong các nghi lễ cầu siêu, cầu vãng sanh: đó là Thần Chú Vãng Sanh.

Ý nghĩa sâu xa của thần chú Om Mani Padme Hum

OM MANI PADME HUM - sáu âm thanh ngắn ngủi - chính là tinh hoa của 84.000 pháp môn, là cốt tủy của con đường Phật dạy. Trì tụng thần chú này, tức là gieo hạt giống bi mẫn và trí tuệ trong tâm mình. Hạt giống ấy, khi được tưới tẩm bằng niềm tin, sự tỉnh giác và lòng từ bi, nhất định sẽ nảy nở thành cây giác ngộ, che mát cho chính ta và cho tất cả chúng sinh.

Phật giáo và các giá trị nhân bản

Trước khi Ðức Phật xuất thế, có 2 phương pháp tu tập thịnh hành ở Ấn Độ. 1) Tu sĩ Bà-la-môn tìm kiếm sự cứu rỗi và giải thoát bằng cách áp dụng những cuộc tế lễ đẫm máu, 2) Một số người thay vì tế lễ họ tu theo phương pháp khổ hạnh ép xác với hy vọng có được kết quả trong tương lai. Ðức Phật xem hai cách thực hành trên là không hoàn thiện, không đem lại lợi ích cho người thực hành.

8 đặc tính của hoa sen trong Phật giáo

Nói đến Phật giáo, người ta thường liên tưởng đến một loài hoa bình dị, thanh cao và thoát tục sống trong ao hồ: hoa Sen - một trong tám biểu tượng của Phật giáo. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa lấy hoa Sen làm đề kinh.

Đức Phật và những di huấn sau cùng

Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn. Nhưng Ngài giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ta thán.

Từ và rải tâm từ

Tình thương không có hình thù, không hương vị, không thể cầm nắm được nhưng không có nó thì nhân loại sẽ chìm vào khổ đau. Và cũng nhờ vào cái tưởng chừng như là không thấy gì ấy mà mọi rào cản được xóa bỏ, con người trở nên gần nhau, yêu thương và tha thứ, xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

Phật giáo là chân lý cần thiết cho đời sống an lạc của nhân loại

Albert Einstein, cho rằng đạo Phật không cần phải xét lại chính mình, vì Phật giáo là chân lý luôn luôn cần thiết cho đời sống an lạc của nhân loại. Đạo Phật nổi tiếng với lời nói “Mời bạn đến và thấy” (Ehipassiko), nhẹ nhàng đi vào thế giới trí thức bởi tính chất trí tuệ nhân bản của nó.
Top