banner 728x90

Văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Chăm

10/12/2024 Lượt xem: 3505

Cộng đồng người Chăm ở tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận có 2 giáo phái chính là người Chăm theo đạo Bàlamôn và người Chăm theo đạo Hồi giáo Bàni. Ngoài ra có một bộ phận nhỏ theo đạo Hồi giáo Islam, bộ phận này được tách ra từ đạo Hồi Bàni, du nhập vào tỉnh Ninh Thuận từ những năm 60 của thế kỷ XX. Trong đời sống văn hóa nói chung, văn hóa ẩm thực nói riêng, đồng bào Chăm của 2 giáo phái trên có những đặc tính ẩm thực và phép tắc ứng xử mang đặc trưng riêng.

Các món ăn được đồng bào Chăm dâng cúng các vị thần trong ngày lễ

Đặc tính ẩm thực của người Chăm

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Inrasara, tổ tiên người Chăm xưa cư trú dọc bờ biển duyên hải miền Trung – vùng đất nhiều nắng gió nên yếu tố địa lý và khí hậu đã ảnh hưởng không nhỏ đến đặc tính ẩm thực của người Chăm. Đơn cử như trong chế biến món ăn, người Chăm ít khi dùng mỡ động vật mà chủ yếu dùng dầu ăn thực vật để tăng hàm lượng chất béo. Những con vật dùng để hiến tế (dâng cúng thần thánh) đều là những con vật có rất ít mỡ trong cơ thể như gà, dê, trâu…

Cư trú ở vùng đất khí hậu khắc nghiệt nên trong chế biến món ăn, người Chăm không ưa các món chiên xào mà chủ yếu là nướng và luộc. Đặc biệt người Chăm rất chú trọng vào các món canh để cân bằng thân nhiệt khi thời tiết nắng nóng. Một bữa ăn thường ngày trong gia đình người Chăm ít khi thiếu món canh, có thể là canh rau rừng, canh rau môn… Đặc biệt là món canh rau tập tàng (nhiều thứ rau nấu chung) pha bột gạo là món ăn khoái khẩu của rất nhiều người, kể cả những gia đình khá giả.

Trong chế biến món ăn, người Chăm rất chú trọng các loại gia vị làm cho món ăn thêm đậm đà, hợp khẩu vị như ớt, hành, sả, mắm, muối… Ở Ninh Thuận có một làng Chăm ăn cay nổi tiếng, đó là làng Chăm Bàni Lương Tri (Palei Cang), xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn. Cách đây hơn 30 năm, hầu như nhà nào cũng có vườn trồng ớt và dự trữ ớt khô để làm gia vị chính trong chế biến các món ăn từ thủy sản nước ngọt như cá, lươn, ếch…

Bên cạnh sử dụng nhiều gia vị, trong các món ăn của người Chăm không thể thiếu món mưthin (mắm - món chấm đặc trưng). Mắm của người Chăm có nhiều loại như: Ia mưthin (nước mắm), Mưthin ngưic (mắm nêm), Mưthin jrum (mắm tôm), Mưthin drei (mắm cái), Mưthin tung ikan ya (mắm lòng cá ngừ), Mưthin ritaung (mắm cá lòng tong), Mưthin ka-ơk (mắm chưng)…

Mắm chưng của người Chăm

Người Chăm đang chế biến món cá ướp muối. Ảnh Kiều Maly

Những phép tắc trong ăn uống

Truyền thống xa xưa trong các gia đình người Chăm đều trải chiếu hoặc cà tăng theo chiều Đông-Tây để dọn ăn. Buổi sáng và buổi chiều thường dọn ăn ngoài sân, còn buổi trưa ăn trong hiên nhà. Thức ăn được dọn trên mâm và ngồi theo thứ bậc trong gia đình. Người phụ nữ (mẹ, chị) thường ngồi gần nồi niêu vừa ăn vừa bổ sung thức ăn cho mọi người. Bữa ăn bắt đầu khi người lớn tuổi cầm đũa. Trong lúc ăn không được nói chuyện hoặc cãi cọ, không để rơi vãi thức ăn.

Trong đình đám, tùy theo tính chất và đạo giáo Bàlamôn hay Bàni mà người Chăm có cách dọn ăn khác nhau. Nếu là đám tang ở cả hai đạo giáo dọn ăn theo chiều Bắc - Nam, còn nếu là các đám khác như đám cưới, hoặc lễ cúng thần thánh, họ dọn ăn theo chiều Đông - Tây. Người Chăm Bàlamôn bày thức ăn trên mâm cho hai hoặc bốn người. Còn người Chăm Bàni chỉ bày thức ăn trên mâm cho hai vị cao niên hoặc chức sắc ngồi trên cùng (gọi là mâm trên). Những mâm dưới sẽ bày thức ăn trực tiếp trên mặt chiếu.

Các vị chức sắc ở hai đạo giáo tham gia cúng kính trong nhà lễ (Kajang), khi ngồi vào mâm thụ lễ đều phải ngồi duỗi chéo chân và cắn hạt muối, thực hiện nghi thức xin phép bằng động tác và lời niệm thầm trong miệng. Đàn ông Chăm dùng cơm nơi đình đám hay ở nhà đều ngồi theo tư thế xếp bằng. Còn người đàn bà ngồi theo tư thế duỗi chéo chân như các vị chức sắc, đó là tư thế chuẩn mực bắt buộc. Trong bất kỳ tiệc đình đám nào, đàn ông cũng được mời ăn, uống trước rồi mới đến phụ nữ.

Những vị tu sĩ có những kiêng cữ gắt gao như không được ăn cá trê, thịt thú vật đã bị chết... Tu sĩ Bàlamôn không được ăn thịt bò, tu sĩ Bàni kiêng ăn thịt heo, thịt dông và nhiều kiêng kỵ khác.

Món rau và mắm chấm của người Chăm. (Ảnh Kiều Maly)

Có thể thấy, văn hóa ẩm thực và những phép tắc ứng xử trong ăn uống của người Chăm đã tạo nên một “phong cách ẩm thực Chăm” rất đặc trưng, góp phần làm nên một nền văn hóa ẩm thực phong phú, độc đáo của 54 dân tộc Việt Nam.

Nguồn: baodantoc.vn

 

 

Tags:

Bài viết khác

Cỗ lá – nét ẩm thực độc đáo trong văn hóa người Mường

Cỗ lá là một nét ẩm thực truyền thống đặc sắc, được đồng bào Mường gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Với người Mường, cỗ lá không chỉ là bữa ăn, mà còn là biểu tượng sinh động của văn hóa, thể hiện tinh thần cộng đồng và bản sắc dân tộc.

Ẩm thực Chăm An Giang: Đậm đà bản sắc giữa lòng sông Hậu

Người Chăm ở miền Tây Nam Bộ chủ yếu sinh sống tập trung trên cù lao Châu Giang (An Giang), bên dòng sông Hậu hiền hòa. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với những ngôi thánh đường Hồi giáo uy nghi mà còn hấp dẫn du khách bởi nền ẩm thực độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc.

Sắc màu văn hóa người Giẻ Triêng

Dân tộc Giẻ Triêng, cư trú chủ yếu ở các tỉnh Kon Tum và Quảng Nam (nay là Quảng Ngãi, Đà Nẵng), sở hữu một nền văn hóa dân gian phong phú, đậm đà bản sắc vùng Bắc Tây Nguyên. Trong kho tàng văn hóa ấy, trang phục truyền thống của người Giẻ Triêng nổi bật như một dấu ấn thẩm mỹ độc đáo, thể hiện gu thẩm mỹ tinh tế, không thể nhầm lẫn với bất kỳ dân tộc nào khác.

Đình Minh Hương- Dấu ấn giao thoa văn hóa người Hoa ở Chợ Lớn -Tp.Hồ Chí Minh

Đình Minh Hương, còn gọi là Hội quán Minh Hương Gia Thạnh, là một trong những ngôi đình cổ nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình không chỉ mang giá trị lịch sử, tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa gốc Minh Hương mà còn là di sản quý về kiến trúc, điêu khắc và thư pháp – biểu trưng cho sự giao thoa văn hóa Việt – Hoa trên vùng đất Sài Gòn xưa.

Đền Chín Gian – Biểu tượng tâm linh và bản sắc người Thái ở Thanh Hóa

Trên đỉnh núi Pú Pỏm, xã Thanh Quân, tỉnh Thanh Hóa, ngôi Đền Chín Gian sừng sững giữa thảm rừng đại ngàn, là chốn linh thiêng lưu giữ niềm tin và bản sắc của cộng đồng người Thái qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là công trình văn hóa, mà còn là biểu tượng kết nối giữa đất – trời, người – thần linh và con cháu với tổ tiên.

Rượu cần – Nét văn hóa đặc sắc của người Thái (Nghệ An)

Rượu cần của người Thái không chỉ là một loại thức uống, mà còn là biểu tượng văn hóa ứng xử, tinh thần đoàn kết và sự tôn trọng thứ bậc trong cộng đồng. Trong bối cảnh hiện đại hóa và hội nhập, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa uống rượu cần là điều cần thiết, góp phần làm phong phú bản sắc dân tộc và gìn giữ di sản văn hóa truyền thống của vùng cao xứ Nghệ.

Chùa La Hán – Cung điện tâm linh giữa lòng miền Tây

Chùa La Hán là công trình tâm linh đặc sắc của cộng đồng người Hoa tại miền Tây Nam Bộ. Kiến trúc chùa là sự hòa quyện tinh tế giữa văn hóa Hoa, Việt và Khmer, thể hiện qua các tượng Phật, pháp khí, linh vật, thánh thần… được sắp đặt hài hòa, mang đậm triết lý phương Đông. Đây cũng là kết tinh sáng tạo của nhiều thế hệ nghệ nhân, kiến trúc sư khi tiếp thu tinh hoa từ các công trình tôn giáo nổi tiếng trên cả nước.

Chùa Ghositaram – “Bảo tàng mỹ thuật” Khmer giữa lòng Cà Mau

Nằm yên bình tại ấp Cù Lao, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Cà Mau, chùa Ghositaram không chỉ là một công trình tôn giáo linh thiêng của đồng bào Khmer mà còn được ví như một “bảo tàng mỹ thuật” thể hiện rõ nét tài năng của các nghệ nhân Khmer địa phương. Với kiến trúc độc đáo, màu sắc rực rỡ và những chi tiết điêu khắc tinh xảo, ngôi chùa này đang trở thành một trong những điểm đến văn hóa đặc sắc bậc nhất ở vùng đất cực Nam Tổ quốc.
Top