banner 728x90

Tỉnh giác với tham ái

17/06/2025 Lượt xem: 2358

Trong vòng luân hồi sinh tử vô tận, ái được xem là sợi dây vô hình trói buộc chúng sanh vào đau khổ. Yêu thương vốn dĩ là điều tốt đẹp, nhưng nếu không có trí tuệ soi đường, nó lại dễ dàng biến thành ái nhiễm, gây ra muôn vàn khổ lụy khi đối diện với hiện thực biến hoại, vô thường.

Ảnh minh họa.

“Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ có một người Phạm chí, độc nhất chỉ có một đứa con, trong lòng hết sức ái niệm, tâm ý khắng khít, chiều chuộng, nhìn hoài không chán. Bỗng nhiên đứa con mạng chung. Sau khi đứa con mạng chung, người Phạm chí ấy ưu sầu, không thể ăn uống được, không mặc áo xiêm, cũng không bôi hương; chỉ biết đi ra bãi tha ma mà khóc, nhớ tưởng chỗ con nằm.

Rồi Phạm chí lang thang khắp nơi, đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Thế Tôn hỏi:

- Ông nay vì sao các căn không trụ nơi tâm mình?

Phạm chí đáp rằng:

- Tôi làm sao các căn có thể an trụ nơi tâm mình được? Vì sao vậy? Chỉ có một đứa con độc nhất, trong lòng hết sức ái niệm, tâm ý khắng khít, chiều chuộng, nhìn hoài không chán. Bỗng nhiên nó mạng chung. Sau khi mạng chung, tôi ưu sầu không thể ăn uống được, không mặc áo xiêm, cũng không bôi hương; chỉ biết đi ra bãi tha ma mà khóc, nhớ tưởng chỗ con nằm.

Thế Tôn nói:

- Thật vậy, Phạm chí! Thật vậy, Phạm chí! Nếu khi ái sanh thì phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não.

Phạm chí nói:

- Cù-đàm, sao lại nói khi ái sanh thì cũng phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não? Cù-đàm nên biết, khi ái sanh thì hỷ cũng sanh, tâm hoan lạc.

Thế Tôn đến ba lần nói như vậy:

- Thật vậy, Phạm chí! Thật vậy, Phạm chí! Khi ái sanh thì phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não.

Phạm chí cũng ba lần hỏi rằng:

- Cù-đàm, sao lại nói khi ái sanh thì cũng phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não? Cù-đàm nên biết, khi ái sanh thì hỷ cũng sanh, tâm hoan lạc.

Lúc bấy giờ Phạm chí nghe những lời Phật nói không cho là phải, mà chỉ bác bỏ, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy, lắc đầu bỏ đi” (Kinh Trung A-hàm, phẩm Lệ, kinh Ái sinh, số 216).

Ảnh minh họa.

Ái, tiếng Phạn là Kama, tức là sự tham ái, khát ái. Ái chính là một chi phần, móc xích quan trọng nắm giữ cơ cấu vận hành của vòng tròn mười hai nhân duyên. Từ ái sanh ra thủ, từ thủ sanh ra hữu,… cứ lặp đi lặp lại như thế cho đến khi chúng ta phá hủy được mắt xích ái thì chấm dứt khỏi sanh tử luân hồi.

Đức Phật đã dạy khi ái sanh thì sầu bi, khổ não, phiền muộn cũng theo đó mà sanh. Nhưng chúng sanh lại thấy ái mang đến niềm vui, hân hoan và sung sướng. Điều này chúng ta đã thấy rõ ở đoạn hội thoại giữa Đức Phật với Phạm chí. Mặc dù nhiều lần khuyên răn, nhắc nhở nhưng Phạm chí vẫn một mực bác bỏ. Vì sao? Bởi vì khi chúng ta đạt được những thứ mình mong muốn thì tâm trạng vui mừng, hạnh phúc và chỉ muốn giữ mãi bên cạnh. Nhưng đó chỉ là niềm vui, hạnh phúc bị giới hạn trong cảm xúc của con người. Bản chất của các pháp là vô thường, sanh diệt, thế nên không có gì là tồn tại mãi. Vì vậy, khi các pháp hoại diệt thì phiền muộn, khổ đau cũng theo đó mà sanh ra. Cũng như tình cảnh của Phạm chí, tình phụ tử thiêng liêng (ái) vô tình đã trở thành sợi xích trói buộc tâm hồn người cha khi mất đi người con yêu quý.

Trong giáo pháp Tứ đế, Đức Phật cũng dạy: “Ái biệt ly khổ”. Đây là một trong tám nỗi khổ ở đời mà ai cũng phải chịu. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có gia đình, người thân và người mình yêu quý mà phải xa lìa họ là chuyện hiển nhiên. Các pháp trên cuộc đời này tồn tại do nhân duyên, đủ duyên thì tụ hết duyên thì tan. “Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, cái này sanh vì cái kia sanh, cái này diệt vì cái kia diệt”, một bài kệ tưởng chừng rất đơn giản và được nghe rất nhiều lần nhưng để thấy được như vậy thì phải là người có trí tuệ như Đức Phật mới thấu rõ được mối nhân duyên tụ - tan của các pháp.

Ái là hạt giống sanh tử, là sợi dây trói buộc chúng sanh trong biển khổ trầm luân. Cái mà người đời tham ái đó chính là năm dục, gồm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Sâu xa hơn là luyến ái, chấp thủ tự ngã. Bất cứ thứ gì nếu chúng ta tham đắm, vướng mắc liền bị sợi dây ái trói buộc. Tuy nhiên năm dục cũng có vị ngọt của nó, nếu không có những vị ngọt này, có lẽ chúng ta sẽ không say đắm, bị cám dỗ như thế. Nhưng đằng sau những vị ngọt ấy là lưỡi dao sắc bén chờ đợi để trừng phạt những kẻ đắm chìm vào tham ái, phải gánh lấy những hậu quả cay đắng, tang thương.

Đối chiếu sang góc nhìn của khoa học, khi con người tham muốn một điều gì đó (ái), trong não bộ tiết ra một chất gọi là Dopamine - một chất dẫn truyền thần kinh tạo ra cảm giác hưng phấn, kích thích chúng ta hành động theo sự mong muốn của mình. Nhưng khi đạt được mục tiêu rồi thì Dopamine tự động giảm xuống, khiến cho chúng ta cảm thấy nhàm chán và vô vị.

Hiện tượng này đã lý giải vì sao những thứ mới mẻ luôn hấp dẫn, như việc mong muốn mua được một chiếc xe đẹp, nhưng sau một thời gian lại thích chiếc xe khác đẹp hơn. Vòng xoay ham muốn cứ thế lặp đi lặp lại, và chúng ta đã trở thành nạn nhân của ái dục và người bạn trung tính Dopamine. Vô hình trung, Dopamine đã giúp cho tham ái trói buộc chúng ta vào năm dục dễ dàng và nhanh hơn.

Mặt khác, nếu như đối tượng tham ái không phải là năm dục, mà là mong muốn thâm nhập giáo pháp hay sự an lạc của thiền định thì Dopamine chính là người bạn giúp đỡ cho chúng ta rất tốt trên con đường tu tập. Vậy điều quan trọng ở đây chính là chúng ta cần phải khéo giác sáng để tham ái không thể len lỏi vào trong tâm.

Tuy nhiên, chúng ta có thể chuyển hóa tâm ái thành yêu thương rộng lớn. Thay vì tham luyến năm dục, chúng ta có thể chuyển hóa năng lượng ái nhiễm sang lòng từ bi vô nhiễm (vô duyên từ). Từ bi cũng là tình thương nhưng đặt trên nền tảng trí tuệ, sáng suốt, không có sự đối đãi giữa ta và người thì tình thương ấy không còn hạn cuộc trong các mối quan hệ nữa, mà rộng khắp với một tâm nguyện mong muốn cho chúng sanh được an vui, giải thoát khỏi biển khổ sanh tử. Và điều kiện tiên quyết để thực hiện được điều này là phải sáng lại tự tâm. Chỉ có tâm trí sáng suốt với vô ngã hiện tiền thì nhiễm ái tự tiêu tan, từ tâm vô lượng. Ví như hình ảnh mặt trời lên cao thì sương mù tự tan biến.

Đức Phật cũng dạy chúng ta phải thường xuyên tỉnh giác khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, thấy biết rõ ràng nhưng không dính mắc thì chúng ta không bị lôi kéo bởi sự hấp dẫn của dục lạc thế gian.

Ngài Trần Thái Tông, một vị vua thiền sư cũng thấy sự nguy hại của việc bất giác, lao theo sáu trần:

“Trời đất nấu nung vạn tượng thành

Xưa nay không mống cũng không manh

Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm

Liền trái không sanh nhận có sanh.

Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị

Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai

Lang thang làm khách phong trần mãi

Ngày cách quê hương muôn dặm trình.

(Khóa hư lục giảng giải, Bốn núi, Núi thứ nhất, HT.Thích Thanh Từ dịch)

Xưa nay tất cả chúng sanh đều từ thể vô niệm, không chút manh mối nhưng chợt thoáng quên, bất giác liền vịn theo sáu trần đuổi bắt các âm thanh, sắc tướng, hương vị. Từ đó mà chúng ta lang thang trong cõi trần thế, cất bước tha phương, đùa vui với những hình ảnh ảo mộng như việc liếm mật ngọt trên lưỡi dao. Cứ rảo bước chân theo những trò vui như thế, cho đến một khi ngoái lại thì không thấy quê nhà ở đâu. Phải chăng chúng ta đã đi rất xa, không còn biết đường về? Đến lúc này thì mắt mờ, chân yếu, tay run làm sao có thể trở về quê nhà được nữa.

Hình ảnh quê nhà chính là Niết-bàn mà Đức Phật hằng mong hàng đệ tử trở về. Chỉ cần giữa đây, trong mớ hỗn độn đầy rẫy dục lạc này, chúng ta giác sáng trở lại, không để cho các vọng niệm, tham ái chi phối là đã làm chủ được các căn, không còn chạy theo sáu trần và năm dục nữa.

Tóm lại, tình thương là một thứ rất quý giá trên cuộc đời này. Nhưng để cho tình thương ấy có giá trị và mang lại lợi ích cho mình và người thì chúng ta phải có nhận thức đúng đắn, trí tuệ sáng suốt, yêu thương khắp tất cả với tâm thái tỉnh sáng mới không bị nhấn chìm trong biển ái thương đau.

Nguồn: Báo Giác Ngộ

 

Tags:

Bài viết khác

Pháp “An cư” là một Phật sự quan trọng và thiết thực của Tăng Ni

Mùa an cư là là giai đoạn để chư Tăng, chư Ni chuyên tâm tu tập tại một trú xứ, nhằm thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, phẩm hạnh. Đó là ý nghĩa quan trọng của việc an cư đối với tất cả Tăng Ni.

Nguồn gốc và ý nghĩa mùa an cư kiết hạ

An cư kiết hạ là pháp tu hành của người xuất gia trong ba tháng hạ đã có truyền thống từ thời Đức Phật còn tại thế. Vậy ý nghĩa của an cư kiết hạ là gì? Chư Tăng làm gì trong mùa an cư kiết hạ?

Phật giáo Việt Nam - Hơn 2000 năm đồng hành cùng dân tộc

Phật giáo, từ khi du nhập vào Việt Nam hơn hai nghìn năm trước, đã không đơn thuần là một tôn giáo, mà còn là một dòng chảy tâm linh sâu lắng, gắn bó máu thịt với vận mệnh của dân tộc. Từ thời kỳ Bắc thuộc, trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn cho đến thời hiện đại, Phật giáo luôn hiện diện như một cội nguồn đạo đức, một sức mạnh tinh thần bất diệt trong lòng dân tộc Việt Nam.

Tháng Saga Dawa - Sự hội tụ của ba sự kiện thiêng liêng trong cuộc đời Đức Phật

Từ ngày 28/5 đến ngày 25/6/2025, tháng thứ tư theo lịch Tây Tạng được gọi là Saga Dawa, là thời điểm đặc biệt trong năm đối với những người con Phật, cùng nhau tích lũy công đức để kỷ niệm ba sự kiện trọng đại trong cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Vì sao các tăng ni đều cạo đầu nhưng Đức Phật lại để tóc?

Mái đầu cạo trọc tượng trưng cho sự từ bỏ và khiêm hạ của những người xuất gia, nhưng tại sao các bức tượng Phật cho thấy ngài vẫn để tóc?

Ảnh hưởng Phật giáo trong Lễ tang người Việt

Trong một kiếp người, hầu như ai cũng trải qua những lễ nghi được gọi là “quan, hôn, tang, tế”. Nếu như “quan” có nghĩa là đánh dấu sự trưởng thành của người nam (theo tục xưa), thì “tang” lại là sự kết thúc một kiếp người và thường biểu hiện qua sự sầu đau, khổ não. Tôn giáo, dù nhất thần, đa thần hay thậm chí vô thần, đều ít nhiều hướng dẫn các cách thức trợ giúp người ra đi và gia quyến của họ.

“A Di Đà Phật” và “Nam mô A Di Đà Phật”, cách niệm nào đúng?

Trong đời sống tâm linh của người Việt, cụm từ "A Di Đà Phật" đã trở nên quen thuộc, không chỉ được xướng lên trong các thời khóa tụng niệm mà còn là lời chào, lời tiễn biệt, lời tri ân trong giao tiếp của Phật tử. Tuy nhiên, rất nhiều người băn khoăn rằng cần niệm “A Di Đà Phật” hay “Nam mô A Di Đà Phật” mới là đúng theo Phật pháp? Có sự khác biệt nào giữa hai cách niệm này không?

Thiện và bất thiện trong Phật giáo

Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
Top