banner 728x90

Tản mạn: Nét đẹp văn hóa Tết Việt Nam

09/01/2025 Lượt xem: 2583

Chẳng biết Tết Nguyên đán có từ bao giờ nhưng hàng ngàn năm nay, khi đất trời từ giá lạnh đổi sang ấm áp, cây cối thay lộc, đào mai, mơ mận… thi nhau bung nụ thì cũng là lúc con người không thể tĩnh tại mà cứ bâng khuâng, rạo rực, đợi chờ. Ba trăm sáu mươi lăm ngày như dồn lại trong mấy ngày cuối cùng của tháng chạp. Bao lo toan sắm sửa cũng chỉ vì “ba ngày Tết”. Bao hò hẹn lứa đôi bầu bạn cũng chờ đến tết. Bao ước mong kỳ vọng cũng gửi cả vào những giờ phút đầu tiên của năm mới. Rồi thăm viếng, đón đưa. Rồi sắp đặt, sửa soạn. Rồi sắm sanh, trang trí. Rồi điện thoại, nhắn tin… Thời gian sao mà chật chội. Năm mới, cái gì cũng phải tinh tươm và mới mẻ. Từ ngôi nhà, con ngõ; từ chiếc áo, tấm quần; từ bàn ghế, ấm chén; giò chả, bánh chưng, dưa hành, thịt mỡ, hương hoa, bánh trái… cứ chộn rộn hẳn lên.

Tết Việt thực ra đã khởi đầu từ cái ngày 23 tháng chạp tiễn ông Táo về trời. Có lẽ vì sinh ra trong một nước sản xuất nông nghiệp, nhà bếp trở thành tâm điểm sự sống và sự sum vầy, nhất là trong những ngày giá lạnh nên người Việt có sự tích về ba ông đầu rau, rồi có tục thờ thần bếp (ông Táo). Xưa thì là một cây hương tưởng nhớ cắm ở góc bếp, nay là bàn thờ nhỏ đủ hương đăng, hoa quả và trầu nước. Nhà nào có điều kiện thì thêm cả cỗ xôi thịt và cỗ áo giấy, tiền vàng làm lễ tiễn ông Táo về trời báo với Ngọc Hoàng về một năm làm ăn và tu nhân tích đức của gia chủ. Để ông Táo về được trời thì phải có con cá chép vượt vũ môn. Trùng hợp với tư tưởng nhà Phật, lại thêm lễ phóng sinh. Chính vì vậy mà những năm gần đây, cứ đến 23 tháng chạp là cá chép được bán rất nhiều ở các chợ. Cái không khí hư hư, thực thực của lễ tiễn ông Táo về trời và chất nhân văn của việc phóng sinh khiến con người ta muốn làm nhiều việc tốt và luôn tin tưởng ở các tập tục. Điều này làm cho tết Việt thêm linh thiêng và đậm đà bản sắc.

Nhưng với người Việt Nam, thời khắc thiêng liêng, hội tụ nhiều tâm tưởng và cảm xúc nhất vẫn là chiều ba mươi, đêm giao thừa và sáng mồng một tết. Đó là khoảng thời gian kết thúc năm cũ, mở ra năm mới, mọi nợ nần phải trả xong, mọi sắp đặt, sắm sửa phải hoàn thành, sẵn sàng đón giờ khắc sang canh và giờ phút đầu tiên tinh khôi của năm mới. Chính vì vậy, người ta mong mọi điều tốt đẹp trong những thời khắc này.

Nhà thơ Nguyễn Công Trứ có mấy câu đối Tết ngộ nghĩnh: “Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa/ Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà; còn nhà thơ Hồ Xuân Hương thì lại viết: “Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới/ Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào. Xưa vì đói nghèo nên trẻ con, người lớn đều mong đến hai ngày này để hưởng thụ cả về vật chất và tinh thần: thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Trẻ con ước ao tấm áo mới, đồng xu lì xì, người già mong có thêm than củi để sưởi khi cái lạnh chưa tan. Và dù ai nghèo khó đến mấy thì chiều ba mươi, nhà nào cũng có cái thủ heo, giò lợn hoặc chí ít là cân thịt mỡ treo trong nhà. Vì thế mới có câu ca dao châm biếm thầy bói khi phán: Số cô chẳng giàu thì nghèo. Chiều ba mươi Tết thịt treo trong nhà.

Ngày nay, đời sống đã giàu có, no đủ, nhiều vật phẩm ngon, đẹp được sắm sửa cho “ba ngày Tết’ nhưng vẫn không thể thiếu được bánh chưng, giò chả, dưa hành, hoa đào, hoa mai, bánh mứt, hương trầm… Và chiều ba mươi, bàn thờ phải được quét dọn, sửa sang, bày biện hương hoa, lễ vật, mâm cúng tinh tươm để mời tổ tiên, ông bà về đón tết đoàn viên với con cháu. Tâm điểm của ngôi nhà lúc ấy là gian thờ. Bao nhiêu trân trọng, thành kính, biết ơn được thể hiện trong từng cử chỉ bày biện lễ vật, trong lời khấn rì rầm và nén hương thắp lên bàn thờ. Tưởng như ông cha về hiện diện chứng kiến cuộc sống của cháu, con. Lời tâm sự, lời nhớ thương và lời hứa cũng được bày tỏ để cháu, con nguôi ngoai nỗi nhớ người xưa. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam đã làm nên mỹ tục thờ cúng tổ tiên, làm cho những khoảnh khắc quý giá của ngày Tết thêm thiêng liêng và rất sâu đậm. Đây cũng chính là bản sắc Việt Nam không thể trộn lẫn với các dân tộc.

Sau lễ cúng trang nghiêm là rộn ràng bữa cơm tất niên trong tình gia đình ấm cúng, đoàn tụ. Người già lấp lánh ánh mắt nhìn con cháu quây quần, trẻ nhỏ đùa vui lăng xăng khoe áo mới, người cha, người mẹ gật đầu hài lòng nhìn con cái trưởng thành. Có thể có đứa chưa giàu, có đứa chưa ngoan, vì vậy, ngày cuối cùng năm cũ, cha mẹ, anh em thêm lời bày vẽ, sẻ chia để mong sang năm mới, mọi người đều có những thay đổi tốt đẹp. Đứa con nào ở xa không về được, lòng mẹ cha đều thấp thỏm. Những cuộc gọi và tin nhắn đã giúp họ bày tỏ tình cảm với nhau. Bao nhiêu người lặn lội, vất vả tàu xe, máy bay cũng chỉ để về kịp cúng tất niên và ăn bữa cơm chiều ba mươi. Người ta hay gọi Tết đoàn viên là vì vậy.

Một nét độc đáo của Tết Việt nữa là dù giàu hay nghèo, xưa hay nay thì tập tục: Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy vẫn được duy trì qua nhiều đời, thể hiện phong cách của người Việt, một dân tộc luôn coi trọng đạo hiếu và đạo học. Ngày đầu quý giá và thiêng liêng nhất phải dành cho ông bà, mẹ cha, anh em họ hàng quyến thuộc rồi đến thầy, cô giáo. Đây cũng là nét rất khác với nhiều quốc gia, dân tộc.

Tết Việt - hai tiếng thiêng liêng và ấm áp trong trái tim hàng chục triệu người con, dù ở trong lòng Tổ quốc hay còn sống khắp nơi trên hành tinh trái đất. Đó là tài sản tinh thần của nhiều thế hệ đang được gìn giữ và trao truyền lại cho con cháu mai sau.

 

Đào Hương Lan

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Tạp văn: Một mùa cau đi qua

Trong giấc mơ của tôi vẫn thường thoang thoảng đâu đó mùi hương hoa cau một đêm hè quê nghèo vọng về từ cái thuở đầu trần chân đất. Nơi ấy còn lưu giữ một khu vườn quê với hàng rào rậm rạp. Và xung quanh, trong những vườn nhà hàng xóm, ngọn cau cao vút lên trong đêm trăng rằm, với những đứa trẻ quê chơi trò đuổi bắt, trốn tìm. Hương hoa cau đã thấm vào đời tôi, hồn tôi, để rồi chảy tràn ra mỗi khi dòng ký ức chạm vào một hàng cau nào đó trên đường tôi qua, một ngày chớm hè.

Câu chuyện gia đình: Máu đỏ đen

Anh làm nghề đánh cá. Sau chuyến biển, thù lao được chia nếu chi tiêu dè sẻn cũng đủ nuôi vợ con. Nhưng khi lên bờ, anh lại lao vào cờ bạc nên cuộc sống cứ mãi khổ. Trong thâm tâm anh cũng biết bài bạc là bác thằng bần, nhưng vì nghèo nên anh muốn tìm vận may. Khốn thay! Vận may không khi nào ghé thăm anh lâu. Vợ anh hết hờn lẫy, khóc lóc lại giận dữ, tỉ tê khuyên anh từ bỏ bài bạc, nhưng anh không quay lưng được với cuộc đỏ đen.

Bài viết phân tích truyện ngắn “Quê hương” của tác giả Đào Quốc Thịnh.

Dàn ý tham khảo của thầy Nguyễn Lý Tưởng - GV trường THCS Bình Minh - Thị xã Nghi Sơn - Thanh Hóa

Truyện ngắn: Tình bạn và sự sẻ chia

Tôi với anh là bạn thân. Anh có học thức, kinh tế khá, chỉ phải cái tính "ta đây" tỏ ra hơn người và đố kỵ, nên suốt đời không ngóc đầu lên được. Thỉnh thoảng, tôi và anh thường rủ nhau đi uống cà phê, nhậu nhẹt. Một lần, trò chuyện với nhau, anh than vãn: “Tớ có đứa bạn thân thời trung học, hay rủ đi uống cà phê. Mỗi lần như thế, hắn cứ luôn than thân trách phận, kể nghèo, kể khổ, đủ thứ chuyện trên đời.

Tản văn: Sông quê

Lâu lắm rồi tôi mới có dịp về thăm quê nội. Quê tôi là một làng nhỏ nằm bên bờ sông Cái, con sông hiền hòa chở bao điều nhung nhớ. Có bao điều thích thú và bao nhiêu kỷ niệm về quê nội, nhưng nhớ nhất vẫn là mỗi khi vào dịp trăng tròn, ngồi bên bờ sông hóng mát, ngắm trăng, nghe ông kể truyện cổ tích.

Truyện ngắn: Vì sao họ chung sống với nhau đến già

Chàng tuổi Mão, nàng tuổi Tuất, cách nhau 7 tuổi, cái tuổi mà tử vi nói là hợp. Nhưng ngày hai đứa đến với nhau cũng thật khó nhọc, bởi một số người hai bên nội ngoại xúm lại can, nói: rồi thế nào chúng mày cũng cãi nhau như chó với mèo.

Truyện ngắn: Nơi ấy là quê hương

Cha mẹ chị ở nơi khác đến lập nghiệp ở mảnh đất này. Giới thiệu về mình, chị nói mình là người sinh ra ở nơi này. Chị có đôi mắt to tròn, luôn ánh nét cười dễ làm người khác xao xuyến. Học đến lớp 10, chị vào thành phố trọ học. Học xong, chị đi làm, lập gia đình, ít có dịp về quê dù quê nhà chạy xe máy khoảng một tiếng đồng hồ là tới. Rồi cuộc sống đổi thay, chị theo chồng sang tận bên kia đại dương, cắm cúi làm ăn nuôi con, năm tháng cứ thế trôi đi...

Câu chuyện gia đình: Tìm được việc làm

Ngày trước, khi học đại học ở TP. Hồ Chí Minh, dù khó khăn đến đâu, hàng tháng ba má cũng gửi cho tôi 2,5 triệu đồng. Tôi chi tiêu tiền nhà, tiền học, ăn uống vừa đủ. Muốn có tiền tiêu vặt, giao lưu với bạn bè, tôi phải làm thêm như giữ xe, đi bán cà phê…
Top