banner 728x90

Sáu trọng pháp của người tu

09/07/2024 Lượt xem: 2660

Trọng pháp là pháp quan trọng, người tu cần tôn trọng và gìn giữ trong đời sống tu hành. Người tu ngoài một số ít theo hạnh độc cư, còn lại phải sống trong Tăng đoàn.

Khi đã sống trong một đoàn thể, ngoài giới luật thì mỗi vị cần điều chỉnh bản thân theo sáu trọng pháp để đoàn thể của mình luôn hòa hợp và trong sạch.

Sáu trọng pháp thường được gọi là sáu pháp hòa hợp hay lục hòa. Chúng ta thường biết về lục hòa gồm: Thân hòa cùng ở, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa cùng vui, kiến hòa đồng giải, giới hòa cùng tu, và lợi hòa cùng chia sẻ. Pháp thoại dưới đây cũng nói về lục hòa, cần tôn trọng nhưng sâu hơn, chỉ ra cốt lõi của vấn đề. Trong đó tâm từ là một nền tảng quan trọng, yêu thương sẽ sinh ra hòa hợp. Hòa hợp là hoa trái có gốc rễ từ yêu thương, tâm từ.

“Một thời, Đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các ngươi hãy suy niệm sáu trọng pháp, kính trọng, tôn trọng, và ghi nhớ mãi ở trong tâm không cho quên mất. Sao gọi là sáu? Ở đây, Tỳ-kheo thân hành niệm từ, như soi gương thấy hình mình, đáng kính, đáng quý, không để quên mất.

- Lại nữa, khẩu hành niệm từ, ý hành niệm từ, đáng kính, đáng quý, không để quên mất.

- Lại nữa, được các thứ lợi lộc đúng pháp thì nên chia cho các phạm hạnh cùng hưởng, không tưởng tiếc rẻ; pháp này đáng kính, đáng quý, không để quên mất.

- Lại nữa, có các giới cấm không hủ, không bại, cực kỳ hoàn hảo, không sứt, không thủng, được bậc trí quý trọng, lại muốn đem giới này được phân bố cho người khác cũng đồng một vị; pháp này đáng kính, đáng quý không để quên mất.

- Lại nữa, chánh kiến của Hiền Thánh dẫn đến xuất yếu; có kiến giải như vậy, và muốn các vị phạm hạnh đồng tu cùng đồng pháp này, cũng đáng kính, đáng quý, không để quên mất.

- Này Tỳ-kheo, đó gọi là có sáu trọng pháp này, đáng kính, đáng quý, không để quên mất. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thường xuyên tu tập các hành vi của thân, miệng, ý; nếu được các thứ lợi dưỡng, cũng nên nghĩ phân đều cho nhau, chớ khởi tưởng tham.

- Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, chương Sáu pháp, phẩm 37-Sáu trọng pháp, kinh số 1)

Tâm từ là một trong bốn Phạm trú (từ, bi, hỷ, xả), là phẩm tính cao thượng của bậc phạm hạnh, của các vị trời Phạm thiên. Với loài người, tâm từ vốn có sẵn nhưng bị các phiền não tham sân chi phối nên cần phát huy, nuôi dưỡng tâm từ. Tập yêu thương không vì mình, trải rộng tình thương đến vô hạn. Yêu thương mà có bóng dáng của tự ngã, vì mình thì đó là ái. Thương bằng tâm ái thì sinh sầu bi, yêu bằng lòng từ thì tự tại và an lạc.

Thân hành niệm từ, khẩu hành niệm từ, ý hành niệm từ chính là thân làm việc yêu thương, miệng nói lời yêu thương, ý suy nghĩ điều yêu thương. Khi niệm từ làm căn bản cho thân, khẩu, ý thì tự động thân hòa, khẩu hòa và ý hòa. Thành ra, nếu kêu gọi các thành viên trong Tăng đoàn sống hòa hợp và thanh tịnh mà bản thân không niệm từ và cũng không chỉ ra điều cốt lõi cho đại chúng là cần thắp sáng tâm từ, lấy tâm từ làm nền tảng thì chỉ là nói suông. Mơ về hoa trái mà không vun bồi gốc rễ thì không thành hiện thực.

Giữ giới là một trong những nhân tố quan trọng khiến mọi người ái kính. Trong Tăng đoàn ai cũng giữ giới trong sạch thì hội chúng tự khắc thanh tịnh. Trong những năm đầu thành lập Giáo đoàn Đức Phật không chế giới vì hầu hết đều đắc thiền, chứng Thánh nên thanh tịnh. Về sau Đức Phật mới chế giới cho người tu nương tựa. Nhờ giữ giới mà trong sạch, trong sạch thì tự nhiên hòa hợp. Cần thấy ra sự hòa hợp là hoa trái của giới hạnh trong sạch. Trong đại chúng có người giới kém hay khiếm khuyết quá nhiều thì khó có thể kiến tạo sự hòa hợp.

Khi sống chung trong Tăng đoàn, có chút lợi lộc do Phật tử hộ trì thì cùng san sẻ với nhau. Luật tạng đã quy định chi tiết về việc này. Ngày nay, một số người chủ trương xử lý lợi ích của chúng Tăng không dựa vào Luật nên không tạo ra hoan hỷ, dễ dẫn đến bất hòa đối với người thiếu kham nhẫn.

Kiến hòa đồng giải không chỉ là cùng thảo luận để đồng nhất quan điểm mà chính là “chánh kiến của Hiền Thánh dẫn đến xuất yếu”, là làm sáng tỏ con đường đúng đắn dẫn đến các đạo quả. Việc này cần đến các bậc trưởng thượng thông suốt pháp học và có kinh nghiệm sâu về pháp hành. Bất hòa về quan điểm tu hành là một thực tiễn mà Đức Phật đã cảnh báo qua câu chuyện “Người mù sờ voi”. Vì thế kiến hòa rất quan trọng, cần thấy rõ về ảnh dụ “Trăm sông đều xuôi về biển cả” để cảm thông, tôn trọng các lập trường tu tập chỉ vì căn cơ khác biệt.

Quảng Tánh/Báo Giác Ngộ

 

 

Tags:

Bài viết khác

Pháp “An cư” là một Phật sự quan trọng và thiết thực của Tăng Ni

Mùa an cư là là giai đoạn để chư Tăng, chư Ni chuyên tâm tu tập tại một trú xứ, nhằm thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, phẩm hạnh. Đó là ý nghĩa quan trọng của việc an cư đối với tất cả Tăng Ni.

Nguồn gốc và ý nghĩa mùa an cư kiết hạ

An cư kiết hạ là pháp tu hành của người xuất gia trong ba tháng hạ đã có truyền thống từ thời Đức Phật còn tại thế. Vậy ý nghĩa của an cư kiết hạ là gì? Chư Tăng làm gì trong mùa an cư kiết hạ?

Phật giáo Việt Nam - Hơn 2000 năm đồng hành cùng dân tộc

Phật giáo, từ khi du nhập vào Việt Nam hơn hai nghìn năm trước, đã không đơn thuần là một tôn giáo, mà còn là một dòng chảy tâm linh sâu lắng, gắn bó máu thịt với vận mệnh của dân tộc. Từ thời kỳ Bắc thuộc, trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn cho đến thời hiện đại, Phật giáo luôn hiện diện như một cội nguồn đạo đức, một sức mạnh tinh thần bất diệt trong lòng dân tộc Việt Nam.

Tháng Saga Dawa - Sự hội tụ của ba sự kiện thiêng liêng trong cuộc đời Đức Phật

Từ ngày 28/5 đến ngày 25/6/2025, tháng thứ tư theo lịch Tây Tạng được gọi là Saga Dawa, là thời điểm đặc biệt trong năm đối với những người con Phật, cùng nhau tích lũy công đức để kỷ niệm ba sự kiện trọng đại trong cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Vì sao các tăng ni đều cạo đầu nhưng Đức Phật lại để tóc?

Mái đầu cạo trọc tượng trưng cho sự từ bỏ và khiêm hạ của những người xuất gia, nhưng tại sao các bức tượng Phật cho thấy ngài vẫn để tóc?

Ảnh hưởng Phật giáo trong Lễ tang người Việt

Trong một kiếp người, hầu như ai cũng trải qua những lễ nghi được gọi là “quan, hôn, tang, tế”. Nếu như “quan” có nghĩa là đánh dấu sự trưởng thành của người nam (theo tục xưa), thì “tang” lại là sự kết thúc một kiếp người và thường biểu hiện qua sự sầu đau, khổ não. Tôn giáo, dù nhất thần, đa thần hay thậm chí vô thần, đều ít nhiều hướng dẫn các cách thức trợ giúp người ra đi và gia quyến của họ.

“A Di Đà Phật” và “Nam mô A Di Đà Phật”, cách niệm nào đúng?

Trong đời sống tâm linh của người Việt, cụm từ "A Di Đà Phật" đã trở nên quen thuộc, không chỉ được xướng lên trong các thời khóa tụng niệm mà còn là lời chào, lời tiễn biệt, lời tri ân trong giao tiếp của Phật tử. Tuy nhiên, rất nhiều người băn khoăn rằng cần niệm “A Di Đà Phật” hay “Nam mô A Di Đà Phật” mới là đúng theo Phật pháp? Có sự khác biệt nào giữa hai cách niệm này không?

Thiện và bất thiện trong Phật giáo

Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
Top