banner 728x90

Phong tục về lễ chạm ngõ và lễ xin dâu

07/07/2024 Lượt xem: 3002

Lễ chạm ngõ

Sau khi hai bên gia đình đã thỏa thuận và đi đến quyết định cưới, gả, nhà trai sẽ hẹn ngày với bên nhà gái để đem lễ vật trầu cau đến xin đính ước.

Theo phong tục thường phải chọn ngày tốt, tức là ngày âm dương bất tương, thì vợ chồng sau này ăn ở mới thuận hòa, để tiến hành lễ chạm ngõ. Trong ngày chạm ngõ, nhà trai sắm một lễ mọn cúng cáo tổ tiên để báo công việc trăm năm của con hay cháu. Sau đó nhà trai sửa một lễ đưa sang nhà gái. Lễ gồm một cơi trầu, têm cánh phượng, cau bổ tư bẻ cánh tiên. Nhà khá giả đưa cả buồng cau, mười mớ trầu, mứt sen, trà lạng đựng trong các quả sơn son thếp vàng. Có nơi ngoài cau trầu, trà rượu, mứt sen, nhà trai còn biếu bánh khảo thường ỉà bánh xu xê, bánh cốm…) và các loại bánh khác được ưa chuộng. Có thể lễ vật tuy ít, nhưng cốt ở tấm lòng thanh của nhà trai.

Đoạn người đi chạm ngõ gồm bà mối, bà mẹ, bà dì, bà cô của chú rể. Các cô gái chưa chồng trong họ tộc (nay thường là nam giới chưa vợ), đội các mâm quả hoặc bưng khay trầu đi trước, sau đó mới đến nam hoặc nữ thanh niên trong đó có chú rể.

Lễ được chia làm 2 phần: phần nhiều đặt lên bàn thờ và cha của cô dâu sẽ khấn vái để báo cáo với tổ tiến về ngày mà con hay cháu họ sắp lập gia đình. Phần còn lại đưa vê nhà ông cậu của cô gái, để lễ gia tiên bên ngoại.

Trước khi nhà trai ra về, nhà gái lại quả một phần.

Hiện nay, nhiều gia đình lý do nào đó như: đường xá đi lại từ nhà trai đến nhà gái quá xa, hay không có điều kiện nên người ta không làm riêng lễ chạm ngõ trong một ngày mà ghép vào làm chung vối lễ ăn hỏi.

Theo phong tục xưa, trong lễ chạm ngõ, nhà trai cho nhà gái một tờ hoa tiên, trong đó ghi tên tuổi ngày sinh tháng đẻ của chú rể để nhà gái xem xét và chấp nhận cho việc đính hôn.

Lễ chạm ngõ thực chất là lễ đính hôn, nên từ sau ngày đó nhà trai thường qua lại nhà gái để tỏ tình thân mật và bàn tính chuyện ăn hỏi sắp đến.

Lễ xin dâu

Hai bên gia đình nhà trai và nhà gái đã thông nhất ngày giờ đón dâu từ trước, do vậy trước giờ đón dâu, nhà trai có mấy người mang một cơi trầu, một chai rượu đến xin dâu và báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến đê nhà gái chuẩn bị đón tiếp.

Cơi trầu và chai rượu này được nhà gái đặt lên bàn thờ để làm lễ cáo tổ tiên biết trước, rồi hạ xuống đón khách đi đưa dâu.

Đại diện của nhà trai là mẹ chồng, hoặc cô, thím trong họ để đưa lễ này.

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

Tags:

Bài viết khác

Cỗ lá – nét ẩm thực độc đáo trong văn hóa người Mường

Cỗ lá là một nét ẩm thực truyền thống đặc sắc, được đồng bào Mường gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Với người Mường, cỗ lá không chỉ là bữa ăn, mà còn là biểu tượng sinh động của văn hóa, thể hiện tinh thần cộng đồng và bản sắc dân tộc.

Ẩm thực Chăm An Giang: Đậm đà bản sắc giữa lòng sông Hậu

Người Chăm ở miền Tây Nam Bộ chủ yếu sinh sống tập trung trên cù lao Châu Giang (An Giang), bên dòng sông Hậu hiền hòa. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với những ngôi thánh đường Hồi giáo uy nghi mà còn hấp dẫn du khách bởi nền ẩm thực độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc.

Sắc màu văn hóa người Giẻ Triêng

Dân tộc Giẻ Triêng, cư trú chủ yếu ở các tỉnh Kon Tum và Quảng Nam (nay là Quảng Ngãi, Đà Nẵng), sở hữu một nền văn hóa dân gian phong phú, đậm đà bản sắc vùng Bắc Tây Nguyên. Trong kho tàng văn hóa ấy, trang phục truyền thống của người Giẻ Triêng nổi bật như một dấu ấn thẩm mỹ độc đáo, thể hiện gu thẩm mỹ tinh tế, không thể nhầm lẫn với bất kỳ dân tộc nào khác.

Đình Minh Hương- Dấu ấn giao thoa văn hóa người Hoa ở Chợ Lớn -Tp.Hồ Chí Minh

Đình Minh Hương, còn gọi là Hội quán Minh Hương Gia Thạnh, là một trong những ngôi đình cổ nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình không chỉ mang giá trị lịch sử, tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa gốc Minh Hương mà còn là di sản quý về kiến trúc, điêu khắc và thư pháp – biểu trưng cho sự giao thoa văn hóa Việt – Hoa trên vùng đất Sài Gòn xưa.

Đền Chín Gian – Biểu tượng tâm linh và bản sắc người Thái ở Thanh Hóa

Trên đỉnh núi Pú Pỏm, xã Thanh Quân, tỉnh Thanh Hóa, ngôi Đền Chín Gian sừng sững giữa thảm rừng đại ngàn, là chốn linh thiêng lưu giữ niềm tin và bản sắc của cộng đồng người Thái qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là công trình văn hóa, mà còn là biểu tượng kết nối giữa đất – trời, người – thần linh và con cháu với tổ tiên.

Rượu cần – Nét văn hóa đặc sắc của người Thái (Nghệ An)

Rượu cần của người Thái không chỉ là một loại thức uống, mà còn là biểu tượng văn hóa ứng xử, tinh thần đoàn kết và sự tôn trọng thứ bậc trong cộng đồng. Trong bối cảnh hiện đại hóa và hội nhập, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa uống rượu cần là điều cần thiết, góp phần làm phong phú bản sắc dân tộc và gìn giữ di sản văn hóa truyền thống của vùng cao xứ Nghệ.

Chùa La Hán – Cung điện tâm linh giữa lòng miền Tây

Chùa La Hán là công trình tâm linh đặc sắc của cộng đồng người Hoa tại miền Tây Nam Bộ. Kiến trúc chùa là sự hòa quyện tinh tế giữa văn hóa Hoa, Việt và Khmer, thể hiện qua các tượng Phật, pháp khí, linh vật, thánh thần… được sắp đặt hài hòa, mang đậm triết lý phương Đông. Đây cũng là kết tinh sáng tạo của nhiều thế hệ nghệ nhân, kiến trúc sư khi tiếp thu tinh hoa từ các công trình tôn giáo nổi tiếng trên cả nước.

Chùa Ghositaram – “Bảo tàng mỹ thuật” Khmer giữa lòng Cà Mau

Nằm yên bình tại ấp Cù Lao, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Cà Mau, chùa Ghositaram không chỉ là một công trình tôn giáo linh thiêng của đồng bào Khmer mà còn được ví như một “bảo tàng mỹ thuật” thể hiện rõ nét tài năng của các nghệ nhân Khmer địa phương. Với kiến trúc độc đáo, màu sắc rực rỡ và những chi tiết điêu khắc tinh xảo, ngôi chùa này đang trở thành một trong những điểm đến văn hóa đặc sắc bậc nhất ở vùng đất cực Nam Tổ quốc.
Top