banner 728x90

Những tục lệ trong ma chay của người Việt

06/10/2024 Lượt xem: 3635

Ma chay là phong tục không thể thiếu được ở tất cả các nền văn hóa, quốc gia trên thế giới. Tuy là chung cùng một mục đích là để tưởng nhớ người đã khuất song mỗi nơi lại có cách thể hiện khác nhau. Theo văn hóa ma chay người Việt, khi một người mất tuỳ quan hệ huyết thống và tình nghĩa thân sơ, mà phân ra các mức thọ tang khác nhau để khắc ghi sự thương tiếc.

Trong thời phong kiến luật lệ là cán cân đo chuẩn mực đạo đức của con người, gia đình, dòng tộc, làng xóm. Nên người Việt rất chấp hành những gia lễ của văn hóa ma chay. Nhưng trong cuộc sống bận rộn ngày nay nhiều thứ gia phong quốc pháp đã bị tinh giản và xóa bỏ trong đó có gia lễ trong văn hóa ma chay. Xã hội càng phát triển con người càng xích lại gần nhau, cuộc sống càng văn minh những nếp văn hóa không phù hợp buộc phải thay đổi hoặc xóa bỏ. Vì thế, quy định thời gian thọ tang ở Việt Nam hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Khi văn hóa cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy bị dẹp bỏ, đồng nghĩa với việc người phụ nữ phải được giảm bớt thời gian thọ tang để còn tự tìm hạnh phúc cho riêng mình. Từ đó, những người cháu gái chưa chồng thường được giảm bớt thời gian thọ tang đối với ông bà hoặc có khi được linh hoạt xả bỏ việc thọ tang, để không vướng bận trong việc hôn nhân. Những người phụ nữ mất chồng, cũng đã được giảm bớt mức thời gian 3 năm thọ tang nặng nề để không vướng bận trong công việc cũng như tái giá.

Những tục lệ trong ma chay  

Mở cửa mả

Trong ba ngày sau khi mới chôn, gia đình tang gia trở ra mộ làm lễ mở cửa mả để cúng thổ thần. Các thầy cúng dùng lươn, cá chép, một cây mía lao cùng nhiều loại giấy tiền vàng bạc để cúng và yểm bùa và cho rằng làm như thế thì trừ được hung thần không cho quậy phá hồn người chết sau để hồn về nơi thờ cúng trong nhà. Sau khi làm lễ mở cửa mả xong thì các con cái bắt đầu dọn mộ hay xây mộ cho thân nhân tang gia có thể xây mộ mà không cần xem ngày giờ tốt xấu.

Cúng thất tuần và chung thất

Theo phong tục khi người chết đã chôn cất xong gia đình phải làm lễ thất tuần tính ngày người chết mới tắt thở. Các con cái chịu tang phải về đầy đủ mặc lại tang phục và cúng cơm cho người chết, thầy cúng hoặc nhà sư đến tụng niệm, cơm cúng cho người chết đều là những món chay nhằm cho người chết được nhẹ nhàng hồn vía, sớm siêu thăng miền cực lạc và có người còn cho rằng cúng chay là để hồn người chết sớm quy y cửa Phật, nương nhờ cửa Phật mà không về với gia đình. Khi cúng đủ 6 tuần thì đến tuần thứ 7 gọi là lễ chung thất. Thường lễ chung thất và lễ tốt khốc 100 ngày hầu như tất cả các gia đình tổ chức rất lớn, có mời họ hàng, xóm giềng đến dự. Trước là cho một số con cái cháu chắt xả tang vì cho rằng trong 49 ngày qua hồn người chết đã yên ổn ở các nơi khi xả tang có thầy cúng hay nhà sư đến làm phép cho người đó. Sau đó thì  để tỏ lòng cảm tạ với khách mời gia đình sẽ mời họ một bữa cơm thịnh soạn.

Tốt khốc

Một trăm ngày là tuần tốt khốc nghĩa là đến ngày này mới thôi khóc. Gia đình cũng mời họ hàng làng xóm đến chứng kiến và cũng có thủ tục xả tang như lễ chung thất. Và phá bỏ bàn vong và di ảnh được đưa lên bàn thờ nhưng không được cắm chung một bát nhang cùng với tổ tiên.

Đại tường và đàm tế

Sau hai năm giỗ tất gọi là đại tường nếu tính theo năm âm lịch là để tang đã đủ ba năm. Tuy nhiên ngày đại tường này cũng chưa phải đã hết tang chế cho tang gia mà sau đó còn một lễ khác có tên gọi lễ đàm tế. Lễ này còn được gọi là lễ trừ phục sau 60 ngày. Trong ngày lễ tất cả những gì còn gợi lại tang ma đều được đốt bỏ mọi người được xả tang và thôi đau buồn nữa.

Với những hủ tục trong ma chay chúng ta thấy quá nhiều rườm rà và bi thiết. Ở các nước có nền văn minh tiên tiến họ không quàng xác tại nhà quá 48 giờ và không có cảnh đưa ma nào là hình tượng phước thần. Còn ở Việt Nam trong một gia đình nếu như mê tín thì người ta có tục đi tìm đất để chôn, đất phải kết phát tài lộc mới gọi là đắc địa rồi xem ngày chọn giờ mới động quan có khi quàng xác tại nhà đến năm bảy ngày như thế thì hàng xóm láng giềng phiền lòng mà người trong cuộc cũng mệt mỏi và tốn kém. Chúng ta thấy như vậy rất tốn kém vì thế cần bỏ bớt những lễ tục không đáng phải phô trương để cho người chết được yên ổn mà về với cát bụi.

Ban Nghiên cứu VHTN Việt Nam

 

 

Tags:

Bài viết khác

Cỗ lá – nét ẩm thực độc đáo trong văn hóa người Mường

Cỗ lá là một nét ẩm thực truyền thống đặc sắc, được đồng bào Mường gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Với người Mường, cỗ lá không chỉ là bữa ăn, mà còn là biểu tượng sinh động của văn hóa, thể hiện tinh thần cộng đồng và bản sắc dân tộc.

Ẩm thực Chăm An Giang: Đậm đà bản sắc giữa lòng sông Hậu

Người Chăm ở miền Tây Nam Bộ chủ yếu sinh sống tập trung trên cù lao Châu Giang (An Giang), bên dòng sông Hậu hiền hòa. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với những ngôi thánh đường Hồi giáo uy nghi mà còn hấp dẫn du khách bởi nền ẩm thực độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc.

Sắc màu văn hóa người Giẻ Triêng

Dân tộc Giẻ Triêng, cư trú chủ yếu ở các tỉnh Kon Tum và Quảng Nam (nay là Quảng Ngãi, Đà Nẵng), sở hữu một nền văn hóa dân gian phong phú, đậm đà bản sắc vùng Bắc Tây Nguyên. Trong kho tàng văn hóa ấy, trang phục truyền thống của người Giẻ Triêng nổi bật như một dấu ấn thẩm mỹ độc đáo, thể hiện gu thẩm mỹ tinh tế, không thể nhầm lẫn với bất kỳ dân tộc nào khác.

Đình Minh Hương- Dấu ấn giao thoa văn hóa người Hoa ở Chợ Lớn -Tp.Hồ Chí Minh

Đình Minh Hương, còn gọi là Hội quán Minh Hương Gia Thạnh, là một trong những ngôi đình cổ nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình không chỉ mang giá trị lịch sử, tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa gốc Minh Hương mà còn là di sản quý về kiến trúc, điêu khắc và thư pháp – biểu trưng cho sự giao thoa văn hóa Việt – Hoa trên vùng đất Sài Gòn xưa.

Đền Chín Gian – Biểu tượng tâm linh và bản sắc người Thái ở Thanh Hóa

Trên đỉnh núi Pú Pỏm, xã Thanh Quân, tỉnh Thanh Hóa, ngôi Đền Chín Gian sừng sững giữa thảm rừng đại ngàn, là chốn linh thiêng lưu giữ niềm tin và bản sắc của cộng đồng người Thái qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là công trình văn hóa, mà còn là biểu tượng kết nối giữa đất – trời, người – thần linh và con cháu với tổ tiên.

Rượu cần – Nét văn hóa đặc sắc của người Thái (Nghệ An)

Rượu cần của người Thái không chỉ là một loại thức uống, mà còn là biểu tượng văn hóa ứng xử, tinh thần đoàn kết và sự tôn trọng thứ bậc trong cộng đồng. Trong bối cảnh hiện đại hóa và hội nhập, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa uống rượu cần là điều cần thiết, góp phần làm phong phú bản sắc dân tộc và gìn giữ di sản văn hóa truyền thống của vùng cao xứ Nghệ.

Chùa La Hán – Cung điện tâm linh giữa lòng miền Tây

Chùa La Hán là công trình tâm linh đặc sắc của cộng đồng người Hoa tại miền Tây Nam Bộ. Kiến trúc chùa là sự hòa quyện tinh tế giữa văn hóa Hoa, Việt và Khmer, thể hiện qua các tượng Phật, pháp khí, linh vật, thánh thần… được sắp đặt hài hòa, mang đậm triết lý phương Đông. Đây cũng là kết tinh sáng tạo của nhiều thế hệ nghệ nhân, kiến trúc sư khi tiếp thu tinh hoa từ các công trình tôn giáo nổi tiếng trên cả nước.

Chùa Ghositaram – “Bảo tàng mỹ thuật” Khmer giữa lòng Cà Mau

Nằm yên bình tại ấp Cù Lao, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Cà Mau, chùa Ghositaram không chỉ là một công trình tôn giáo linh thiêng của đồng bào Khmer mà còn được ví như một “bảo tàng mỹ thuật” thể hiện rõ nét tài năng của các nghệ nhân Khmer địa phương. Với kiến trúc độc đáo, màu sắc rực rỡ và những chi tiết điêu khắc tinh xảo, ngôi chùa này đang trở thành một trong những điểm đến văn hóa đặc sắc bậc nhất ở vùng đất cực Nam Tổ quốc.
Top