banner 728x90

Ảnh hưởng Phật giáo trong Lễ tang người Việt

13/05/2025 Lượt xem: 2587

Trong một kiếp người, hầu như ai cũng trải qua những lễ nghi được gọi là “quan, hôn, tang, tế”. Nếu như “quan” có nghĩa là đánh dấu sự trưởng thành của người nam (theo tục xưa), thì “tang” lại là sự kết thúc một kiếp người và thường biểu hiện qua sự sầu đau, khổ não. Tôn giáo, dù nhất thần, đa thần hay thậm chí vô thần, đều ít nhiều hướng dẫn các cách thức trợ giúp người ra đi và gia quyến của họ. Phật giáo, khi mới thành lập, không hướng dẫn lễ cầu nguyện mà chỉ dạy cách trợ niệm cần thiết để giúp người sắp chết ra đi nhẹ nhàng theo nghiệp; nhưng khi Phật giáo được truyền sang các nước có nền văn hóa Khổng, Lão như ở Trung Quốc và Việt Nam… thì việc cầu nguyện cho người chết trở nên không thể thiếu, đặc biệt là Phật giáo Tịnh độ. Trong bối cảnh hầu hết các chùa ở Việt Nam đều theo tông Tịnh độ và các tín đồ có niềm tin Phật giáo đều mong muốn có nghi lễ cầu nguyện của Phật giáo trong lễ tang của người thân, người viết xin được đề cập về “Ảnh hưởng Phật giáo trong lễ tang người Việt”. Trong phạm vi này, bài viết sẽ nêu ra một số ảnh hưởng tích cực cũng như sự hạn chế của Phật giáo trong quá trình thích nghi. Từ đó, một số ý kiến cá nhân đưa ra như là sự tham khảo nhằm khắc phục những điểm bất cập và phát huy vai trò của đạo Phật trong nền văn hóa dân tộc Việt.

Có thể khẳng định rằng Đức Phật không dạy một nghi thức cầu nguyện nào về lễ tang, ngoại trừ những bài kinh có nội dung trợ niệm cho người sắp qua đời. Sự thật này được tất cả các truyền thống Phật giáo chấp nhận. Tuy nhiên, các nghi lễ cầu nguyện dành cho lễ tang lại được chư Tổ soạn ra nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tín ngưỡng quần chúng và làm phương tiện độ sanh. Tồn tại cùng với nền văn hóa bản địa ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, các tôn giáo ngoại nhập buộc phải thích nghi để tồn tại và một trong những thích nghi quan trọng là nghi lễ cầu nguyện. Mặc dù vậy, nghi lễ Phật giáo lại không đóng vai trò nòng cốt trong một lễ tang của tín đồ Phật tử Việt Nam mà nó chỉ chiếm một phần nhỏ quan trọng trong nhiều yếu tố pha trộn bao gồm tôn giáo và tập tục. Vậy thì, ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang như thế nào?

Về hình thức

Thông thường khi một tín đồ Phật giáo sắp qua đời, họ thường thỉnh Tăng Ni đến để hộ niệm. Việc làm này là hợp với lời Phật dạy dù cách thức có khác. Tuy nhiên, trường hợp không mời được Tăng Ni đến thì phần lớn tín đồ không biết cách thức hộ niệm cho người thân của mình. Có thể nói đây là một điều thiếu sót của Phật giáo trong việc hướng dẫn tín đồ Phật tử, và một phần do quan niệm đề cao năng lực cứu độ của người xuất gia.

Khi có người qua đời, công việc đầu tiên mà người thân chuẩn bị cho lễ tang là xem ngày giờ, thậm chí tuổi tác kỵ, hạp. Công việc này nhiều nơi là do chính Tăng Ni thực hiện. Sau khi chuẩn bị các thủ tục và vật dụng cần thiết xong, Tăng Ni được thỉnh đến cử hành lễ nhập liệm. Nhập liệm xong, một án thờ được thiết lập trước quan tài với tấm phủ nghi phía trước (hoặc thêm bức thờ tùy địa phương) có những dòng chữ Hán nói về sự đau buồn và về đạo hiếu, tình nghĩa vợ chồng… Ngoài ra, một lá triệu (còn gọi là minh tinh) và vàng mã cũng được chuẩn bị. Trong thiết trí, một điều không thể thiếu liên quan đến Phật giáo là thiết lập bàn thờ Phật để tụng kinh cầu nguyện.

Như vậy, về hình thức, lễ tang biểu hiện có sự ảnh hưởng của Phật giáo qua ba yếu tố gồm hình tượng Phật hay Bồ-tát, sự hiện diện của chư Tăng Ni hay cư sĩ Phật tử, và lời kinh Phật được tán tụng. Trong ba yếu tố trên thì sự hiện diện của chư Tăng Ni là yếu tố quan trọng nhất biểu hiện sự ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang. Kế đến là sự có mặt của cư sĩ (khi không có Tăng Ni) và sau cùng là chỉ có hình tượng Phật hay Bồ-tát. Thông thường, hình tượng Phật chỉ được tôn trí khi có sự hiện hiện của Tăng Ni hay cư sĩ, nên yếu tố con người hành lễ luôn quyết định. Ngoài ra, các yếu tố khác được xem là quan trọng trong lễ tang như chọn ngày giờ tốt, kỵ tuổi tác, mặc đồ tang, đốt vàng mã, khóc than, lễ lạy, v.v… đều là tập tục hay sự ảnh hưởng từ tôn giáo khác. Như vậy, nếu lễ tang không có Tăng Ni hay cư sĩ đến tụng niệm thì yếu tố Phật giáo hầu như vắng mặt.

Về nội dung

Một yếu tố quan trọng hơn biểu hiện sự ảnh hưởng tích cực của Phật giáo trong lễ tang là nội dung đóng góp của nó. Khi một người thân qua đời, gia quyến thường bối rối vì một phần bị tình cảm chi phối và một phần do không rành các tập tục quy định. Hơn nữa, sự đau buồn thương tiếc và lòng hiếu thảo hay ân nghĩa luôn thúc giục họ làm điều gì đó hữu ích cho người quá cố, và sự siêu độ hay vãng sanh là điều họ mong muốn. Do đó, Tăng Ni luôn là điểm đầu tiên họ tìm đến nương nhờ. Sự có mặt của Tăng Ni và sự hướng dẫn nhiệt tình, khôn khéo của họ sẽ giúp cho gia quyến an ủi phần nào và tạo cho họ cũng như những người xung quanh những hình ảnh đẹp về Phật giáo. Đó là nội dung “pháp sinh động” của đạo Phật đang được tuyên dương.

Trong suốt lễ tang từ khi liệm, cúng cơm cho đến hạ huyệt, nhiều bài kinh được tán tụng để cầu nguyện. Có lẽ không sai khi nói rằng hiếm ai đủ tập trung để nghe và hiểu hết ý nghĩa những lời kinh Phật được trì tụng trong suốt thời gian lễ tang cho dù nó được dịch ra tiếng Việt. Huống chi, kinh điển trì tụng thường là âm Hán - Việt và thường Tăng Ni không giảng giải ý nghĩa trước khi trì tụng. Hiếm lắm mới có trường hợp thuyết linh nhưng đó cũng chỉ là cách “chữa lửa”. Do vậy, ảnh hưởng của Phật giáo không phải là do nội dung các bài kinh được tụng mà là “những bài pháp sống động” do chính Tăng Ni thể hiện qua tam nghiệp của họ. Nếu tam nghiệp thanh tịnh thì họ sẽ cảm hóa được cả người mất lẫn kẻ còn, bằng ngược lại thì hiệu quả khó đoán biết.

Những điều suy ngẫm

Như trên vừa trình bày, ảnh hưởng Phật giáo trong lễ tang chỉ phát huy khi Tăng Ni hay ít nhất là các cư sĩ trong ban hộ niệm có mặt. Vậy là nếu các lễ tang thiếu hình bóng họ thì cũng có nghĩa rằng không có hay có rất ít sự ảnh hưởng của Phật giáo, dù cho gia đình ấy có niềm tin đạo Phật. Rõ ràng, Tăng Ni không thể nào đủ để đảm trách việc tang ma với số lượng tín đồ Phật tử như hiện nay, và nhất là không thể nào có mặt kịp thời để hộ niệm tất cả tín đồ sắp qua đời. Vả lại, không lẽ sự nghiệp của người xuất gia là chỉ chờ làm công việc ấy thôi sao?! Điều đáng nói nữa là nhiều gia đình mời Tăng Ni đến nhưng không hoàn toàn tin tưởng năng lực hộ niệm của Tăng Ni và giáo lý nhân quả của đạo Phật nên họ buộc các Tăng Ni phải theo giờ giấc khắt khe mà họ đã đi xem trước. Từ đó, mức độ ảnh hưởng của Phật giáo có thể suy biết được.

Lại nữa, chúng ta hay tự hào đạo Phật một thời là quốc giáo và có ảnh hưởng nhiều nhất trong nền văn hóa dân tộc Việt, nhưng sự ảnh hưởng của Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc như thế nào lại là điều đáng suy ngẫm. Trong tất cả các lễ hội thì đạo Phật, như một sự mặc định, có sự gắn kết với lễ tang nhiều nhất. Sự mặc định cao đến độ hễ thấy Tăng Ni đi đến đâu thì người ta thường nghĩ là có người đã hoặc sắp qua đời ở nơi đó! Vậy mà, qua lễ tang của tín đồ Phật tử, ta thấy hầu như là các phong tục tập quán, thậm chí là mê tín, vẫn chiếm phần lớn. Đây có phải là điều đáng suy ngẫm không?!

Giải pháp nào

Đạo Phật vốn độ sanh chứ không phải độ tử nhưng ngày nay thì kiêm cả hai. Tuy nhiên, cốt tủy của đạo Phật vẫn phải là độ sanh và do đó phải đi theo hướng này. Muốn vậy, Phật giáo cần tập trung chú trọng vào người đang khỏe mạnh để hướng dẫn họ đi đúng Chánh pháp hơn là chỉ phục vụ tín ngưỡng. Khi họ có niềm tin kiên cố vào Chánh pháp thì tất yếu họ sẽ theo các nghi thức Phật giáo để tổ chức lễ tang mà không phải lo sợ. Một nghi thức Phật giáo cần có để tất cả cư sĩ Phật tử nương theo thực hành khi chưa hay không có Tăng Ni . Nó cần có những nội dung hướng dẫn rõ ràng từ cách thức tổ chức đến các kinh trì tụng, bắt đầu từ khi hấp hối cho đến an sàng. Phật giáo thừa sức làm việc này.

Đối với những người chỉ tìm đến đạo Phật khi có hữu sự thì cần thiết phải xác định niềm tin của họ đối với Phật giáo và Tăng Ni . Một khi đã tin tưởng Tăng Ni thì nhất thiết phải tuân theo sự hướng dẫn của họ để tổ chức lễ tang. Những người này sẽ trở thành cư sĩ Phật tử tương lai nếu họ thấy được giá trị đạo Phật thông qua phẩm hạnh của Tăng Ni trong suốt lễ tang. Do vậy, cần phải đào tạo những Tăng Ni có khả năng và có từ tâm thay vì thực dụng, tức thời. Chưa cần phải thuyết pháp hay, những Tăng Ni này đã và đang làm công việc hoằng pháp hữu hiệu một cách bất ngờ. Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang như thế không đáng quý sao!

Thích Hạnh Chơn

(Nguyệt San Giác Ngộ)

 

Tags:

Bài viết khác

Hiếu là cội nguồn của đạo làm người

Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, hiếu không chỉ là một đức tính căn bản mà còn là nền tảng để xây dựng nhân cách, gia đình và xã hội. Vào thế kỷ II, khi Phật giáo du nhập vào Giao Châu, Mâu Tử đã soạn Lý hoặc luận để giải trừ nghi hoặc với giới Nho sĩ và Đạo gia về Phật giáo.

Tình và Trí

Tình cảm và lý trí khó có thể tồn tại đồng thời một cách trọn vẹn, viên mãn. Những người làm đầu ngành kinh tế, lãnh đạo hoặc khoa học bận để tâm trí và thời gian vào chuyên môn cho nên thường phải hy sinh hạnh phúc riêng gia đình.

Kỳ Lân – Linh Vật Thiêng Liêng Trong Phật Giáo

Trong văn hóa Á Đông, kỳ lân là một trong tứ linh Long – Lân – Quy – Phụng, tượng trưng cho điềm lành, trí tuệ và sự thịnh vượng. Riêng trong Phật giáo, kỳ lân được tôn kính không chỉ bởi hình ảnh huyền thoại mà còn bởi ý nghĩa tâm linh sâu sắc, biểu trưng cho lòng từ bi, chính nghĩa và trí huệ.

Công năng của Thần Chú Vãng Sanh

Trong kho tàng tu tập của Phật giáo Tịnh độ, bên cạnh pháp môn niệm Phật “Nam Mô A Di Đà Phật” được xem là cốt lõi, còn có một mật ngôn được trì tụng phổ biến trong các nghi lễ cầu siêu, cầu vãng sanh: đó là Thần Chú Vãng Sanh.

Ý nghĩa sâu xa của thần chú Om Mani Padme Hum

OM MANI PADME HUM - sáu âm thanh ngắn ngủi - chính là tinh hoa của 84.000 pháp môn, là cốt tủy của con đường Phật dạy. Trì tụng thần chú này, tức là gieo hạt giống bi mẫn và trí tuệ trong tâm mình. Hạt giống ấy, khi được tưới tẩm bằng niềm tin, sự tỉnh giác và lòng từ bi, nhất định sẽ nảy nở thành cây giác ngộ, che mát cho chính ta và cho tất cả chúng sinh.

Phật giáo và các giá trị nhân bản

Trước khi Ðức Phật xuất thế, có 2 phương pháp tu tập thịnh hành ở Ấn Độ. 1) Tu sĩ Bà-la-môn tìm kiếm sự cứu rỗi và giải thoát bằng cách áp dụng những cuộc tế lễ đẫm máu, 2) Một số người thay vì tế lễ họ tu theo phương pháp khổ hạnh ép xác với hy vọng có được kết quả trong tương lai. Ðức Phật xem hai cách thực hành trên là không hoàn thiện, không đem lại lợi ích cho người thực hành.

8 đặc tính của hoa sen trong Phật giáo

Nói đến Phật giáo, người ta thường liên tưởng đến một loài hoa bình dị, thanh cao và thoát tục sống trong ao hồ: hoa Sen - một trong tám biểu tượng của Phật giáo. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa lấy hoa Sen làm đề kinh.

Đức Phật và những di huấn sau cùng

Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn. Nhưng Ngài giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ta thán.
Top